Bản án 76/2021/HSST ngày 22/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 76/2021/HSST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 71/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cà Thị B Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày: 08/6/1989 tại tỉnh Điện Biên Nơi cư trú: Bản N, xã N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa (học vấn): 03/12 PT; Con ông: Cà Văn N - sinh năm 1967 và bà: Lường Thị E - sinh năm 1965; Bị cáo có chồng là Lò Văn N - sinh năm 1985 và 01 con sinh năm 2014; Tiền án: không, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 15/12/2020 sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử. (có mặt)

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lò Văn T – sinh năm 1981. Nơi cư trú: Bản N, xã N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 40 phút ngày 15/12/2020 tổ công tác Đội CSĐTTP về kinh tế và ma túy, Công an thành phố Điện Biên Phủ đang làm nhiệm vụ tại khu vực Bản H, xã N, thành phố Đ phát hiện Cà Thị B đang điều khiển xe mô tô BKS 27B1 - 680.xx có dấu hiệu nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe về trụ sở công an xã N kiểm tra, tại đây B đã tự nguyện giao nộp trong quần lót của mình đang mặc 01 gói được gói ngoài bằng nilon màu đen, tiếp đến là nilon màu trắng trong suốt bên trong có 02 gói nhỏ được gói bằng nilon màu xanh trong mỗi gói có chứa một cục chất bột màu trắng đục. Cà Thị B khai nhận đó là Heroine, B mua về để bán lẻ kiếm lời.

Quá trình điều tra Cà Thị B khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 15/12/2020 B một mình điều khiển xe mô tô BKS 27B1 - 680.xx đi từ nhà tại Bản N lên khu vực bản L, xã M, thành phố Đ với mục đích tìm mua ma túy về bán kiếm lãi. Khi đi đến đoạn đường thuộc bản L, B gặp và nhờ một người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi không quen biết mua số Heroine bị thu giữ với giá 200.000 đồng rồi cất giấu trong quần lót của mình đang mặc. Khi đang trên đường về nhà thì bị phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 02 gói bên trong có chứa tổng khối lượng 0,64 gam Heroine; 01 xe mô tô BKS 27B1 - 680.xx kèm chìa khóa và đăng ký xe mang tên Lò Văn T.

Tại bản kết luận giám định số 30/GĐ-PC09 ngày 23/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu vật ký hiệu M1, N1 gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Khối lượng vật chứng G1: 0,41 gam; G2: 0,23 gam. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Hoàn lại đối tượng giám định.

Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKSTPĐBP ngày 12/3/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Cà Thị B về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS: Xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,47 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định và 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu đen, 02 mảnh nilon màu xanh.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định chất ma túy niêm phong lại vật chứng, Kết luận giám định...Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 09 giờ 40 phút ngày 15/12/2020 tại khu vực Bản H, xã N, thành phố Đ, Cà Thị B đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,64 gam Heroine nhằm mục đích bán lẻ kiếm lời. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251/BLHS.

Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đa truy t ố đôi vơi bị cáo là có căn cứ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

[2]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo nên hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục, giúp bị cáo trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành.

[4]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:

Đối với 0,64 gam Heroine thu giữ của bị cáo, sau khi trích mẫu gửi giám định còn lại 0,47 gam là vật Nhà nước cấm tàng trữ; các mảnh nilon là vật dùng gói ma túy không có giá trị, không sử dụng được nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

[5]. Các vấn đề khác:

Đối với đối tượng bị cáo khai đã bán ma túy, quá trình điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 27B1 - 680.xx bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã xác định đây là xe của ông Lò Văn T cho bị cáo mượn. Ông T không biết bị cáo dùng xe vào việc phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe kèm chìa khóa và đăng ký xe cho ông T, việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Công an thành phố Điện Biên Phủ, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đều hợp pháp.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên do bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa xin miễn án phí nên căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 HĐXX chấp nhận miễn án phí HSST cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Cà Thị B phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Cà Thị B 2 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (15/12/2020 ).

2. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,47 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định; 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu đen, 02 mảnh nilon màu xanh (đã niêm phong).

(Vt chứng đã được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/3/2021).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/4/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2021/HSST ngày 22/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về