TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN
BảN ÁN 76/2020/HS-ST NGÀY 23/11/2020 Về TộI TÀNG TRữ TRÁI PHÉP CHấT MA TÚY
Ngày 23 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 76/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Hoàng Văn B1 (tên gọi khác: Không có); sinh ngày 08 tháng 9 năm 1972 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn T1, xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn L (đã chết) và bà Hoàng Thị N (đã chết); có vợ là Đàm Thị H1 (đã ly thân) và có 01 con sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật; bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 18/8/2020 đến nay. Có mặt.
- Người chứng kiến: Ông Dương Văn B2. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Văn B1 nghiện chất ma túy từ năm 2010 đến nay. Khoảng 08 giờ ngày 18/8/2020, Hoàng Văn B1 đi bộ từ nhà đem theo 1.000.000 (một triệu) đồng đến khu vực cầu H2 thuộc xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn mục đích tìm mua chất ma túy để sử dụng. Hoàng Văn B1 gặp và mua ma túy với một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ); Hoàng Văn B1 mua 1.000.000 (một triệu) đồng được một ống nhựa nhỏ màu trắng bên trong chứa 12 (mười hai) gói ma túy. Hoàng Văn B1, nhận lấy số ma túy và cất vào túi quần đang mặc rồi đi bộ về nhà. Đến nhà, Hoàng Văn B1 lấy ma túy ra sử dụng hết 02 (hai) gói; sau khi sử dụng xong thì tổ công tác Đồn biên phòng T3 và Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn đến kiểm tra phát hiện bắt quả tang vào hồi 10 giờ 15 phút cùng ngày.
Tổ công tác đã tạm giữ của Hoàng Văn B1 gồm: 01 (một) ống nhựa, nhỏ màu trắng, bên trong có 10 (mười) gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy được niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Hoàng Văn B1”; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, có lắp 01 (một) sim Viettel.
Tại Kết luận giám định số 245/KL-PC09 ngày 19/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: “Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,417 gam (đã trừ bì)”.
Tại bản Cáo trạng số 70/CT-VKS ngày 27/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn B1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; bị cáo thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn B1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;
áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Văn B1 từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được để trong một phong bì niêm phong, 01 (một) ống nhựa nhỏ và toàn bộ vỏ bao gói; trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel đã qua sử dụng có lắp 01 (một) sim Viettel.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận và xin được hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 18/8/2020, tại thôn T1, xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện bắt quả tang Hoàng Văn B1 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine, có khối lượng là 0,417 gam (đã trừ bì), với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Hoàng Văn B1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để phục vụ cho việc sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có bố đẻ là ông Hoàng Văn L được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[6] Về nhân thân: Bị cáo sử dụng ma túy, năm 2013 đi cai nghiện, năm 2015 lại tiếp tục sử dụng ma túy cho đến nay, điều này thể hiện bị cáo thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân.
[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.
[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 08/10/2020 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, không có thu nhập ổn định, bản thân nghiện ma túy, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định được để trong một phong bì niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Hoàng Văn B1”, 01 (một) ống nhựa nhỏ và toàn bộ các vỏ bao gói là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không sử dụng được. Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã qua sử dụng, có lắp 01 (một) sim Viettel do không liên quan đến hành vi phạm tội.
[10] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.
[11] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết họ, tên và địa chỉ. Cơ quan điều tra đã tiến hành tiến hành xác minh nhưng không làm rõ được, do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.
[13] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn B1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn B1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 18/8/2020.
3. Về xử lý vật chứng:
3.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Hoàng Văn B1”, trên phong bì thư có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H3, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng tổng cộng 0,356 gam chất ma túy Heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết), 01 (một) ống nhựa nhỏ màu trắng và toàn bộ các vỏ bao gói.
3.2. Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn B1 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen đã qua sử dụng, có lắp 01 (một) sim Viettel.
(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/11/2020).
4. Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn B1 phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 76/2020/HS-ST ngày 23/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 76/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về