TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 76/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 30/11/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 367/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2020 về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình “thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 158/2020/QĐXXST-DS ngày 13/11/2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lưu Thị H, sinh năm 1998 (có mặt);
Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố S, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Hiện cư trú: Thôn Q, xã X, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1998 (vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt);
Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố S, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
Hiện đang cai nghiện ma túy tại: Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bắc Giang, địa chỉ thôn K, xã N, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Lưu Thị H trình bày: Tại Quyết định số 36 ngày 25/02/2016 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã công nhận thuận tình ly hôn giữa chị với anh S. Khi đó chị và anh S thỏa thuận anh S nuôi con chung là Nguyễn Trung A, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. Sau khi ly hôn được một tuần thì anh S gọi chị ra đón con về nuôi, chị đã ra đón và nuôi con từ đó đến nay. Tháng 7/2020 anh S phải đi cai nghiện ma túy bắt buộc liên tục 24 tháng. Nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị xin được nuôi con để chị chuyển khẩu của con về với chị và chuyển trường học, đăng ký quản lý học tập cho con theo quy định của trường; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. Hiện chị đang làm nghề móng - mi Thu nhập bình quân 7.000.000/1 tháng, hai mẹ con đang ở cùng gia đình bố mẹ đẻ chị tại thôn Q, xã X, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, điều kiện kinh tế gia đình khá giả, đảm bảo việc ăn ở sinh hoạt và học tập của hai mẹ con, chị cam đoan sẽ đảm bảo nuôi dưỡng và chăm sóc con tốt.
* Bị đơn anh Nguyễn Văn S trình bày: Chị H trình bày về thời gian ly hôn và thỏa thuận nuôi con khi ly hôn là đúng. Nay chị H đề nghị thay đổi nuôi con anh không đồng ý, vì hiện tại anh đang cai nghiện không thể nuôi con được, nhưng sau khi cai nghiện xong trở về anh sẽ nuôi con.
Tại phiên toà hôm nay chị H có mặt giữ nguyên yêu cầu trên; anh S vắng mặt, có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt anh S, sau đó thông báo kết quả xét xử cho anh S biết.
Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân dân, các đương sự trong suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay chị H có mặt; anh S vắng mặt, có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt, sau đó thông báo kết quả xét xử cho anh S biết. Do vậy đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đề nghị xét xử giao chị H nuôi con chung là Nguyễn Trung A. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu giải quyết, nên đề nghị HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết; chị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ngoài ra còn đề nghị tuyên quyền kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, phạm vi khởi kiện, thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện xin thay đổi nuôi con và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Lưu Thị H, sinh năm 1998; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố S, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Hiện cư trú: Thôn Q, xã X, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, khởi kiện xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn với anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1998; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố S, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Hiện đang cai nghiện ma túy tại: Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bắc Giang, địa chỉ thôn K, xã N, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Nội dung: Chị H đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn với anh S, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. Như vậy đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hôn nhân và gia đình, đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, không đề nghị giải quyết về cấp dưỡng nuôi con, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.
Thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay chị H có mặt, anh S vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Nên HĐXX áp dụng Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về nuôi con chung: Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số: 36/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lưu Thị H và anh Nguyễn Văn S. Về con chung, chị H và anh S thỏa thuận; anh S nuôi con chung là Nguyễn Trung A, sinh ngày 09/02/2018. Nay chị H đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Phía anh S không đồng ý. HĐXX xét thấy chị H có điều kiện nuôi con tốt hơn, mặt khác con còn nhỏ, phía anh S đang phải cai nghiện ma túy bắt buộc liên tục 24 tháng, nên để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con trẻ, tạo điều kiện cho việc ăn ở học tập của con, cần giao chị H nuôi con là Nguyễn Trung A, sinh ngày 09/02/2018. Về cấp dưỡng nuôi con, chị H không đề nghị Tòa án giải quyết, HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Anh S được quyền thăm nom con sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi con, xét là phù hợp Điều 81; 82; 83; 84 Luật hôn nhân và gia đình.
Tiểu mục “Về nuôi con Chung” tại mục “2/ Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau” tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số: 36/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang được thay đổi bằng Bản án này.
[2.2] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp.
Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
* Áp dụng Điều 28; 35; 147; 228; 235; 264; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 26; 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1/ Về nuôi con chung: Xử thay đổi người trực tiếp nuôi con Nguyễn Trung A, sinh ngày 09/02/2018 từ anh Nguyễn Văn S sang cho chị Lưu Thị H được nuôi con; Không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; anh S được quyền thăm nom con sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi con, không ai được cản trở anh S thực hiện quyền này. (Tiểu mục “Về nuôi con Chung” tại mục “
2/ Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau” tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số: 36/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang được thay đổi bằng Bản án này).
2/ Về án phí: Chị Lưu Thị H phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào 300.000đ tiền chị H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2019/0002656 Ngày 28/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.
Báo cho đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án.
Án xử sơ thẩm công khai./.
Bản án 76/2020/HNGĐ-ST ngày 30/11/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 76/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về