TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 76/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 24 tháng 12 năm 2020 Tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 229/2020/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2020/QĐXX –ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2020/QĐST – HNGĐ ngày 25/11/2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn : Chị Nguyễn Thị H - sinh năm 1989.
Trú tại: Thôn T, xã H, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1985.
Trú tại: Thôn T, xã H, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.
Hiện đang chấp hành án tại Trại giam số II – Công an Thành phố Hà Nội. Tại phiên tòa chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh D vắng mặt có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn và tại bản tự khai, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:
Về tình cảm vợ chồng: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn D tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội vào ngày 07/01/2009. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống không hạnh phúc.
Nguyên nhân do nghi kỵ lẫn nhau, không tin tưởng nhau trong cuộc sống. Mâu thuẫn đỉnh điểm xảy ra vào năm 2018, anh D đã cho hai con uống thuốc trừ sâu dẫn đến tử vong. Anh D bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội tuyên án tử hình.
Nay chị H đề nghị Quý Tòa án cho chị Hiền được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.
Về con chung: Có hai con đã chết vào năm 2018.
Về công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Không có.
Về án phí: Tôi xin tự nguyện nộp toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
Bị đơn Anh Nguyễn Văn D có quan điểm: Anh và chị H tự nguyên kết hon với nhau và có đăng ký tại UBND xã H vào ngày 07/01/2009.
Quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân mâu thuẫn là do cô H có quan hệ bất chính với một người bạn học cùng hồi cấp ba đã có vợ con. Dẫn đến vợ người bạn ấy gửi tin nhắn cho anh, anh D biết và khuyên bảo nhiều lần. Bản thân cô H và người bạn trai đã nhiều lần xin lỗi anh D và hứa không tái phạm. Nhưng sự việc cứ diễn ra hàng năm và nhiều lần dẫn đến tôi bức xúc và vợ chồng cãi chửi nhau thường xuyên.
Điển điểm đến năm 2018 cô H lại có quan hệ với người đàn ông khác nữa và yêu cầu anh D làm giấy công nhận cho cô H ngoại tình, đi đâu, làm gì là quyền của cô H và yêu cầu anh D mang giấy về đọc cho bố mẹ đẻ anh D nghe. Anh D có nhờ Cha đạo dàn xếp hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng cô H vẫn chứng nào tật nấy. Nay anh D và cô H không còn tình cảm vợ chồng. Nhưng vì theo Đạo Thiên Chúa nên anh D không được phép ly hôn.
Con chung: Hiện hai cháu đã mất. Tài sản chung: Không có.
Công nợ chung: Không có.
Tại phiên tòa: Vắng mặt các bên đương sự.
Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự tố tụng theo quy định.
Về nội dung vụ án. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh D là trầm trọng. Đề nghị Tòa án cho chị H được ly hôn anh D.
Con chung: Không còn.
Tài sản chung: Không có.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội giải quyết việc Ly hôn với anh Nguyễn Văn D.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai.
[2] Về nội dung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn D tự nguyên đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội vào ngày 07/01/2009. Việc kết hôn giữa hai anh chị hoàn toàn tự nguyện và hợp pháp.
Vợ chồng chung sống không hạnh phúc, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống. Dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Gây bức bách trong cuộc sống, hậu quả là anh Nguyễn Văn D đã không còn tỉnh táo mà có suy nghĩ tiêu cực tước đoạt đi mạng sống của hai con chung và bản thân đang mang bản án Tử hình.
Xét Mâu thuẫn vợ chồng quá trầm trọng. Vì vậy cần xử cho chị H được ly hôn anh Duy.
[3] Về con chung: Có hai con đã chết vào năm 2018.
[4] Tài sản chung: Không có. công nợ chung: Không có. công sức: Không có.
[5] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, pháp lệnh về án phí lệ phí Tòa án. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Toà án.
Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều: 51; 53, 56 Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ các Điều 28, khoản 2 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điểm a, b khoản 2 Điều 227; Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Toà án.
Xử: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn D.
[3] Về con chung: Có hai con đã chết vào năm 2018.
[4] Tài sản chung: Không có. công nợ chung: Không có. công sức: Không có.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 02269 ngày 13/10/2020 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.
Án xử công khai sơ thẩm Nguyên đơn có mặt. Có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bị đơn vắng mặt, có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú, tại trụ sở UBND xã Bích Hòa, huyện Thanh Oai nơi bị đơn thường trú và tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.
Bản án 76/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 76/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Oai - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về