TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 76/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 11 năm 2019 tại hội trường xét xử Hình sự, Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Chu Văn M, sinh ngày: 10/06/1985 tại huyện L, tỉnh Hà Nam; trú tại: Khối phố V, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hà Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Chu Văn H và bà Vũ Thị G; có vợ Nguyễn Thị Tố O và có một con nhỏ sinh năm 2019 (Trước đây có kết hôn với chị Đinh Thị C, trú tại xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, có một con chung sinh năm 2012 hiện đã ly hôn); tiền án, tiền sự: Không. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/8/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Chị Lít Ta Ní In Thăm M, sinh năm 1999; thường trú: Bản X, huyện V, tỉnh Viêng Chăn, Quốc tịch Lào - sinh viên Trường C Hà Tĩnh (vắng mặt).
- Người làm chứng: Chị Đuông Đướn Hương Vị P, sinh năm 2000; thường trú: Bản N, huyện K, tỉnh Bô Ly Khăm Xay, Quốc tịch Lào - sinh viên Trường C Hà Tĩnh (vắng mặt).
- Người phiên dịch: Ông Phan Trung D, sinh năm 1980 – Trung tâm dịch thuật và dịch vụ đối ngoại tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 14/08/2019, Chu Văn M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen vàng, biển kiểm soát: 90B1-...03 đi từ xã T, huyện T về xã T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày khi về đến đường L (gần khu vực trường C Hà Tĩnh), M phát hiện chị Lít Ta Ni In Thăm M đi bộ cùng chị Đuông Đướn Hương Vị P, đều là sinh viên và tạm trú tại trường C Hà Tĩnh. Chị Đuông Đướn Hương Vị P đi phía bên trong còn chị Lít Ta Ni In Thăm M đi bên ngoài cùng chiều đi với M. M thấy túi quần sau bên phải của chị Lít Ta Ni In Thăm M đang mặc để một ví da màu hồng nên nảy sinh ý định cướp giật lấy tiền tiêu xài cá nhân. Quan sát xung quanh vắng người, M điều khiển xe vượt lên và áp sát chị Lít Ta Ni In Thăm M, nhanh chóng dùng tay phải giật lấy ví rồi tăng ga xe bỏ chạy đến bờ đê thuộc khối phố H thuộc phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh dừng lại mở ví ra lấy toàn bộ số tiền 503.000 đồng, còn chiếc ví màu hồng và chiếc thẻ ATM vứt ở bên bờ đê rồi điều khiển xe đi về nhà. Số tiền vừa cướp giật được M tiêu xài cá nhân.
Sau khi bị cướp giật, chị Lít Ta Ni In Thăm M đến Công an thành phố H trình báo sự việc. Đến 19 giờ 00 ngày 15/08/2019, khi Chu Văn M đang điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen vàng, biển kiểm soát: 90B1-...03 đi trên đường L thì bị Công an thành phố Hà Tĩnh phát hiện và đưa về trụ sở làm việc. Tại đây Chu Văn M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đồng thời khai nơi đã vứt chiếc ví màu hồng để Cơ quan điều tra tiến hành thu giữ, đối với chiếc thẻ ATM đã mất nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.
Kết luận định giá tài sản số 66/KLĐG ngày 17/09/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Tĩnh xác định: 01 chiếc ví da màu hồng loại ví nữ, có kích thước 15x9cm bên ngoài có chữ CG màu vàng, phía dưới có dòng chữ Fashion Leather trị giá 10.000 đồng.
Bản cáo trạng số: 71/CT-VKSTPHT ngày 17/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Chu Văn M về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh giữ nguyên quan điểm như nội dung cáo trạng truy tố; trong phần luận tội và tranh luận, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt Chu Văn M từ 30 đến 36 tháng tù về tội "Cướp giật tài sản” và đề nghị xử lý vật chứng.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo nhận lỗi, nhận thức được hành vi cướp giật tài sản là sai trái, vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.
[2] Về chứng cứ xác định tội danh:
Xét lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng; phù hợp với vật chứng vụ án được thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, xác định được: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14/08/2019, Chu Văn M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen vàng, biển kiểm soát: 90B1-...03 đi đến đường L thuộc phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh giật ví màu hồng trị giá 10.000 đồng, bên trong ví có 503.000 đồng của chị Lít Ta Ni In Thăm M. Tổng giá trị tài sản Chu Văn M chiếm đoạt là 513.000 đồng, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đầy đủ căn cứ kết tội bị cáo Chu Văn M phạm tội“Cướp giật tài sản” quy định Điều 171 Bộ luật hình sự.
Chu Văn M điều khiển xe mô tô khi phát hiện tài sản của bị hại liền điều khiển xe áp sát để cướp giật tài sản sau đó tăng tốc độ tẩu thoát, bị hại hoàn toàn bất ngờ và bị động nên có nguy cơ cao gây tai nạn đối với bị hại có thể gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng. Do đó, thủ đoạn phạm tội của bị cáo là nguy hiểm nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng hình phạt“Dùng thủ đoạn nguy hiểm” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Bị cáo Chu Văn M không có tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo “Thành khẩn khai báo”; “Bồi thường thiệt hại”;“Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt” Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt:
Hành vi phạm tội của bị cáo Chu Văn M là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh cần phải xử phạt mức án thỏa đáng, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, gia đình có hoàn cảnh khó khăn vợ mới sinh con được 03 tháng tuổi nên cần xem xét, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể phạt tiền từ 10.000.000 đến 100.000.000 đồng”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy, bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Xét luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật, về mức án đề nghị là phù hợp.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Chu Văn M đã bồi thường cho chị Lít Ta Ni In Thăm M 503.000 đồng; đối với chiếc thẻ ATM bị mất chị Lít Ta Ni In Thăm M không yêu cầu bồi thường. Tòa miễn xét.
[8] Về xử lý vật chứng:
- 01 ví màu hồng Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Lít Ta Ni In Thăm M là phù hợp.
- Cần tiếp tục tạm giữ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3s màu đen thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành khoản án phí;
- 01 thẻ ATM ngân hàng Agribank mang tên Chu Văn M, 01 thẻ căn cước công dân mang tên Chu Văn M, 01 ví da màu đen thu giữ tại Chu Văn M, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
- 01 con dao bằng kim loại thu giữ tại Chu Văn M không liên quan đến hành vi phạm tội, tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 chiếc xe mô tô thu giữ của Chu Văn M nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen vàng, biển kiểm soát: 90B1-...03 là tài sản riêng của bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; 332; 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Chu Văn M phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt, Chu Văn M 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/8/2019.
* Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Trả lại cho bị cáo: 01 thẻ ATM ngân hàng Agribank mang tên Chu Văn M; 01 thẻ căn cước công dân mang tên Chu Văn M; 01 ví da màu đen;
- Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3s màu đen của Chu Văn M để đảm bảo thi hành khoản án phí.
+ Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch, thu nộp ngân sách Nhà nước:
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen vàng, biển kiểm soát: 90B1- ...03 của Chu Văn M;
- Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bằng kim loại.
(Đặc điểm, tình trạng vật chứng thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng lập hồi 15 giờ 35 phút ngày 17/10 /2019 giữa cán bộ cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh và cán bộ Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tĩnh).
* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, buộc Chu Văn M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 76/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 76/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về