Bản án 76/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 76/2019/HS-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 72/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2019/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Lâm P, sinh năm: 1996 tại Lâm Đồng; Nơi cư trú: Tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch:Việt Nam; con ông không rõ và bà Nguyễn Thị H, cha dượng ông Phạm Văn T; gia đình bị cáo có 03 anh chị em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2013;

Tiền án: Bản án số 143/2014/HSST ngày 30/9/2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 03 tháng tù về tội bắt giữ người trái pháp luật; Bản án số 82/2017/HSST ngày 20/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản; Bản án số 117/2017/HSST ngày 21/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 09 tháng tù về tội gây rối trật tự công cộng. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/01/2019.

Tiền sự: Quyết định số 74/QĐ-XPVPHC ngày 02/4/2015 của UBND thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà phạt tiền 3.500.000đồng về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác; bị bắt tạm giam ngày 19/6/2019; Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quanÔng Nguyễn Viết H, sinh năm 1970, Nơi cư trú:Tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 12h30’ ngày 19/6/2019 tại nhà nghỉ H thuộc thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, Công an huyện Lâm Hà bắt quả tang Nguyễn Lâm P đang cất giấu trong ví da 02 gói nilon có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy.

Tang vật thu giữ gồm: 01 ví da màu nâu bên trong có 02gói nilon chứa chất tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô hiệu Yamaha Eciter biển số 49D1-166.30 màu trắng xanh; 01 chiếc điện thoại Nokia màu xanh dương, 01 điện thoại oppo màu trắng.

Tại bản kết luận giám định số 951/GĐ-PC09 ngày 22/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận mẫu tinh thể đựng trong 02 gói nilon được niêm P gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 5,1778g, loại Methamphetamine; Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Qua điều tra đối tượng khai nhận, bản thân có sử dụng ma túy nên vào tối ngày 18/6/2019, P đi taxi đến khu vực ngã ba T, huyện L tìm gặp một người đàn ông tên K (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy với số tiền 3.400.000đồng. Người này cầm tiền bỏ đi khoảng 10 phút sau quay lại đưa cho P 02 gói nilon bên trong có ma túy. P cầm số ma túy này đem về nhà rồi lấy một ít ra sử dụng, số còn lại cất trong ví da để trong người. Đến ngày 19/6/2019, P điều khiển xe xe mô tô hiệu Yamaha Eciter biển số 49D1-166.30 ( xe mượn của Nguyễn Viết H) đến nhà nghỉ H ở Tân Hà thuê phòng nghỉ nhằm mục đích để sử dụng ma túy thì bị công an phát hiện bắt quả tang.

Tại bản cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 14/10/2019 củaViện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà để xét xử bị can Nguyễn Lâm P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túytheo quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố, không khiếu nại hay thắc mắc gì về nội dung bản cáo trạng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội:Tàng trữ trái phép chất ma túyđồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Lâm P từ 6 đến 7 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận: bản thân có sử dụng ma túy nên vào tối ngày 18/6/2019, P đi taxi đến khu vực ngã ba T, huyện L tìm gặp một người đàn ông tên K (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy với số tiền 3.400.000đồng. Người này cầm tiền bỏ đi khoảng 10 phút sau quay lại đưa cho P 02 gói nilon bên trong có ma túy. P cầm số ma túy này đem về nhà rồi lấy một ít ra sử dụng, số còn lại cất trong ví da để trong người. Đến ngày 19/6/2019, P điều khiển xe xe mô tô hiệu Yamaha Eciter biển số 49D1-166.30 ( xe mượn của Nguyễn Viết H) đến nhà nghỉ H ở Tân Hà thuê phòng nghỉ nhằm mục đích để sử dụng ma túy thì bị công an phát hiện bắt quả tang. Toàn bộ tang vật đã bị Công an thu giữ là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng tổng cộng là 5,1778gam.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, biên bản phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tang vật thu giữ và những tài liệu chứng cứ khác được phản ánh trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn Lâm P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, đồng thời còn tác động xấu đến tình hình trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương.

Ma túy là loại độc dược, gây ra nhiều tác hại đối với người sử dụng và còn là nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác, đồng thời cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác trong xã hội. Chính vì vậy, Nhà nước ta nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, về hình phạt đối với loại tội phạm này cũng rất nghiêm khắc. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo đã không nghĩ đến tác hại của loại độc dược này đối với chính bản thân mình mà mua ma túy cất giữ để sử dụng thì đã bị phát hiện bắt quả tang.

Xét vai trò của bị cáo trong vụ án, bị cáo P là người trực tiếp đón taxi từ thị trấn Đ đi Tân Hà để mua ma túy, sau đó quay về nhà lấy một ít ra sử dụng, là người chủ động cất ma túy vào trong ví da; sau đó bị cáo cũng là người trực tiếp điều khiển xe máy từ thị trấn Đ đi Tân Hà thuê nhà nghỉ tìm địa điểm và thời gian thích hợp để sử dụng ma túy. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà mình đã thực hiện.

Xét nhân thân của bị cáo đã ba lần bị xử lý hình sự về các tội bắt giữ người trái pháp luật, trộm cắp tài sản và gây rối trật tự công cộng, mới trở lại cuộc sống cộng đồng nhưng bị cáo không chịu tu chí làm ăn lương thiện lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này nguy hiểm hơn những lần trước chứng tỏ ý thức coi thường k cương pháp luật. Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo tình tiết định khung được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự nên cần phải có hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét đến thái độ thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, hoàn cảnh gia đình không được thuận lợi do bị cáo sống với cha dượng từ nhỏ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo có điều kiện rèn luyện, từ bỏ ma túy, cải tạo trở thành người công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[3]. Đối với đối tượng tên K là người bán ma túy cho Nguyễn Lâm P, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Hà đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý sau.

[4]. Đối với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Eciter biển số 49D1-166.30 của ông Nguyễn Viết H, khi ông H đi vắng con trai ông H là H đã cho bị cáo mượn xe, việc bị cáo sử dụng xe đi Tân Hà thuê nhà nghỉ để sử dụng ma túy, ông H không biết. Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông H chiếc xe trên và tại phiên tòa ông H xác định đã nhận lại xe và ông cho rằng thực tế khi nhận lại xe thì xe không được nguyên hiện trạng như lúc cho mượn nhưng ông không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính ra, bị cáo còn có thể bị phạt tiền. Xét thấy, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án do Cơ quan điều tra thu giữ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự là hai P bì niêm P ghi số 951/2019/PC09 của phòng khoa học hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng; 01 ví da màu nâu đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại Nokia màu xanh dương, 01 điện thoại oppo màu trắng.

Qua xem xét Hội đồng xét xử nhận thấy: đối với 01 chiếc điện thoại Nokia màu xanh dương, 01 điện thoại oppo màu trắng là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo. Đối với 01 ví da màu nâu bị cáo sử dụng cất giấu ma túy và hai P bì niêm P ghi số 951/2019/PC09 của phòng khoa học hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng đựng Methamphetamine Nhà nước cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Lâm P phạm tộiTàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Lâm P 6(sáu) năm tù . Thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2019.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 ví da màu nâu và hai P bì niêm P ghi số 951/2019/PC09 của phòng khoa học hình sự công an tỉnh Lâm Đồng đựng Methamphetamine

+ Trả cho bị cáo Nguyễn Lâm P 01 chiếc điện thoại Nokia màu xanh dương, 01 điện thoại Oppo màu trắng đã qua sử dụng;

(Tất cả có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 15/10/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà).

3.Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghịa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (07/11/2019) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về