Bản án 76/2019/HSPT ngày 21/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 76/2019/HSPT NGÀY 21/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/HSPT ngày 09/01/2019 đối với bị cáo Hoàng Hải N về tội “Trộm cắp tài sản” do có kháng cáo của bị cáo Hoàng Hải N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 348/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Các bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Hoàng Hải N; Sinh ngày 20/5/1990; tại tỉnh Nghệ An; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú hiện nay: Không có nơi ở nhất định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; tiền án, tiền sự: Không; con ông Hoàng Văn T và bà Lê Thị L; bị cáo có vợ là Hoàng Thị Phương Y, sinh năm: 1990 (không đăng ký kết hôn) và có 01 con, sinh năm: 2016.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/7/2018 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có tiền tiêu xài Hoàng Hải N và đối tượng tên D (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đã rủ nhau đi trộm cắp tài sản, N và D thống nhất, N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Surius, màu đỏ-đen, biển số: 47P1 -159.68 chở D đi trên các tuyến đường trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, tìm tài sản là xe mô tô của người dân sơ hở thì lén lút, dùng vam phá khóa bẻ khóa điện trộm cắp xe mô tô. Sau đó, D thỏa thuận bán tài sản do trộm cắp được cho đối tượng tên T (chưa xác định lai lịch) với số tiền6.000.000đồng/01 chiếc xe. T thuê Hồ Văn N vận  chuyển xe từ tỉnh Đắk Lắk đến tỉnh Bình Phước giao cho T. Nếu vận chuyển trót lọt, T trả công cho N1.500.000đồng/01 chiếc xe. Trong khoảng thời gian từ ngày  11/7/2018 đến ngày17/7/2018, Hoàng Hải N và  đối tượng tên D đã rủ nhau đi trộm cắp tài sản của nhiều người dân trên địa bàn thành phố B, thị xã B và huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, giao cho N vận chuyển đi Bình Phước giao cho T để tiêu thụ, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 11 giờ ngày 11/7/2018, Hoàng Hải N điều khiển xe mô tô biển số: 47P1 – 159.68, chở đối tượng tên D đi lòng vòng qua các tuyến đường trên địa bàn thành phố B, tìm kiếm tài sản là xe mô tô của người dân sơ hở thì trộm cắp. Khi đi đến trước đường C, phường T, thành phố B. N và D nhìn thấy xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển số: 47D1 – 369.68, của anh Nguyễn Quốc T, đang để trên vỉa hè, không có người trông coi, trên xe mô tô có chìa khoá cắm vào ổ khoá điện. Lúc này, N đứng ngoài cảnh giới còn D đi đến lén lút trộm cắp chiếc xe, rồi điều khiển đem cất giấu tại Nghĩa trang thị trấn E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, D liên lạc thoả thuận bán chiếc xe mô tô trộm cắp được cho T với số tiền: 6.000.000 đồng thì T đồng ý. T thuê Hồ Văn N đi đến địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để vận chuyển xe mô tô do N và D trộm cắp. Đến sáng ngày  12/7/2018, N đi đến nhà nghỉ Đ, thị trấn E, huyện C, gặp N và D. Sau đó, N điềukhiển xe mô tô 47P1 –  159.68, chở N và D đi đến Nghĩa trang thị trấn E, huyện C. Tại đây, N và D giao cho N chiếc xe mô tô 47D1 – 369.68. Sau khi nhận xe N điều khiển đi đến Bến xe phía N, thuộc phường Ea Tam, thành phố B, gửi xe khách và đi cùng (chưa xác định đặc điểm, biển số xe và lai lịch người vận chuyển xe) đến tỉnh Bình Phước, giao xe cho T rồi lấy số tiền: 1.500.000 đồng, số tiền có được N đã tiêu xài cá nhân hết. Đối với số tiền: 6.000.000 đồng sau khi bán chiếc xe mô tô trộm cắp cho T, N và D đã chia nhau tiêu xài hết. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, không thu giữ được chiếc xe mô tô 47D1 - 369.68.

Tại bản kết luận định giá số: 190/KLĐG ngày 13/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển số: 47D1 – 369.68, số khung: RLHJA390XHY305024, số máy: JA39E035091, trị giá: 15.200.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 07 giờ sáng ngày 12/7/2018, Hoàng Hải N điều khiển xe mô tô biển số: 47P1 – 159.68, chở D đi đến địa bàn huyện K, tỉnh Đắk Lắk, tìm kiếm tài sản là xe mô tô của người dân sơ hở thì trộm cắp. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, N và D đi đến trước trụ sở Điện Lực huyện K, thuộc tổ dân phố B, thị trấn K, tỉnh Đắk Lắk. Lúc này, N đứng ngoài cảnh giới, còn D đi vào bên trong lén lút dùng vam phá khoá phá ổ khoá điện, trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Surius, màu đỏ-đen, biển số: 47C1 - 290.72, của chị Lương Thị Hoàng N, rồi nổ máy điều khiển xe mô tô đem cất giấu tại Nghĩa trang thành phố B. Sau đó, D liên lạc thoả thuận bán chiếc xe mô tô trộm cắp được cho T với số tiền: 6.000.000 đồng thì T đồng ý. T thuê Hồ Văn N đi đến địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để vận chuyển xe mô tô do N và D trộm cắp. Đến sáng ngày 13/7/2018, N đi đến nhà nghỉ Đ, thị trấn E, huyện C, gặp N và D. Sau đó, N điều khiển xe mô tô 47P1 –k5 159.68, chở N và D đi đến Nghĩa trang thành phố B. Tại đây, N và D giao cho N chiếc xe mô tô 47C1 – 290.72. Sau khi nhận xe N điều khiển xe mô tô đi đến Bến xe phía N, gửi xe khách rồi đi cùng (chưa xác định đặc điểm, biển số xe và lai lịch người vận chuyển xe) đến tỉnh Bình Phước giao xe cho T và lấy số tiền: 1.500.000 đồng, số tiền có được N đã tiêu xài cá nhân hết. Đối với số tiền: 6.000.000 đồng sau khi bán chiếc xe mô tô trộm cắp cho T, N và D đã chia nhau tiêu xài hết. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, không thu giữ được chiếc xe mô tô 47C1 – 290.72.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 52/KLĐG ngày 04/9/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K, kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Surius, màu đỏ-đen, biển số: 47C1 – 290.72, trị giá: 23.000.000 đồng.

Quá trình điều tra chị Lương Thị Hoàng N yêu cầu Hoàng Hải N phải bồi thường số tiền: 23.000.000 đồng (trị giá chiếc xe mô tô nhãn hiệu Surius, màu đỏ- đen, biển số: 47C1 – 29072).

Vụ thứ ba: Vào khoảng 17 giờ ngày 13/7/2018, Hoàng Hải N điều khiển xe mô tô biển số: 47P1 – 159.68, chở D đi đến địa bàn thị xã H, tỉnh Đắk Lắk, tìm kiếm tài sản là xe mô tô của người dân sơ hở thì trộm cắp. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày khi cả hai đi đến trước quán Tâm, địa chỉ: Đường N, phường A, thị xã H, tỉnh Đắk Lắk, thì nhìn thấy nhiều xe mô tô đang để trên vỉa hè, không có người trông coi. Lúc này, N ngồi trên xe mô tô 47P1 – 159.68 (cách quán T khoảng10m) cảnh giới, còn D đi đến lén lút dùng vam phá khoá phá ổ khoá điện, trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ-đen-bạc, biển số: 47C1-217.88, của chị Nguyễn Thị Thu S, bên trong cốp xe có: 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47C1 -217.88; 01 bảo hiểm xe mô tô biển số 47C1-217.88 đều mang tên Nguyễn Thị Ngọc U (là chị Gái S, khi mua chị S nhờ chị U đứng tên đứng tên trong giấy đăng ký xe mô tô); 01 thẻ ATM; 01 giấy chứng minh nhân dân đều mang tên chị Nguyễn Thị Thu S, rồi điều khiển xe đem cất giấu tại rẫy cà phê của ông Y Tring N, địa chỉ: Buôn E, thị trấn E, huyện C. Sau đó, D liên lạc thoả thuận bán chiếc xe mô tô trộm cắp được cho T với số tiền: 6.000.000 đồng thì T đồng ý. T thuê Hồ Văn N đi đến địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để vận chuyển xe mô tô do N và D trộm cắp. Đến sáng ngày 14/7/2018, N đi đến nhà nghỉ Đ, thị trấn E, huyện C, gặp N và D. Sau đó, N điều khiển xe mô tô 47P1 – 159.68, chở N và D đi đến rẫy cà phê của ông Y T Niê. Tại đây, N sử dụng cờ lê tháo biển số 47C1-217.88 rồi gắn biển số 93 (chỉ nhớ mã vùng, do T đưa cho N trước đó) vào chiếc xe trên nhằm tránh sự phát hiện, còn biển số xe 47C1-217.88 và các giấy tờ nêu trên D giữ rồi đưa lại 01 biển số xe 47C1-217.88; 01 giấy đăng ký xe mô tô và 01 bảo hiểm xe mô tô biển số 47C1 -217.88 cho N giữ (Cơ quan điều tra đã thu giữ nêu tại vụ thứ 5). Sau đó, N điều khiển chiếc xe trên đi đến tỉnh Bình Phước, giao cho T và  lấy số tiền: 1.500.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết. Đối với số tiền: 6.000.000 đồng sau khi bán chiếc xe mô tô trộm cắp cho T, N và D đã chia nhau tiêu xài hết. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, không thu giữ được chiếc xe mô tô trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 38/KLĐG ngày 04/9/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã H, tỉnh Đắk Lắk, kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ-đen-bạc, biển số 47C1 -217.88, số máy: HC12E7221533, số khung: RLHHC1250FY221486; trị giá: 11.900.000 đồng. 

Quá trình điều tra xác định: 01 biển số 47C1-217.88; 01 bảo hiểm xe mô tô và 01 giấy đăng ký xe mô tô 47C1-217.88, là tài sản của chị Nguyễn Thị Thu S. Ngày15/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Buôn Ma Thuột, ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho chị Nguyễn Thị Thu S nhận  quản lý. Sau khi nhận lại tài sản, giấy tờ chị Nguyễn Thị Thu S, yêu cầu Hoàng Hải N phải bồi thường số tiền: 11.900.000 đồng (trị giá chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ-đen-bạc, biển số: 47C1 -21788). 

Tại Cơ quan điều tra, chị Nguyễn Thị Thu S trình báo: Ngoài việc bị mất tài sản, giấy tờ nêu trên ra thì chị S còn bị mất 01 máy tính bảng nhãn hiệu Samsung Galaxy Tab 6, màu đen, để trong cốp của chiếc xe mô tô 47C1 -217.88. Tuy nhiên, các bị can N và N đều khai không biết việc trong cốp xe mô tô biển số 47C1 - 217.88 có chiếc máy tính trên.

Vụ thứ tư: Khoảng 11 giờ ngày 16/7/2018, Hoàng Hải N điều khiển xe mô tô biển số: 47P1 – 159.68, chở D đi lòng vòng qua các tuyến đường trên địa bàn thành phố B, tìm kiếm tài sản là xe mô tô của người dân sơ hở thì trộm cắp. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến khu vực ngã 3 đường đất (lối đi vào thác nước) thuộc Buôn A, xã E, thành phố B, thì nhìn thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Surius, màu sơn đen-xám, biển số: 47B2 – 218.37, của chị H D Êban, không có người trông coi. Lúc này, N đứng ngoài cảnh giới, còn D đi đến lén lút dùng vam phá khoá phá ổ khoá điện, nổ máy và điều khiển xe mô tô 47B2 – 218.37 đem cất giấu tại Nghĩa trang thị trấn E, huyện C. Sau đó, D liên lạc thoả thuận bán chiếc xe mô tô trộm cắp được cho T với số tiền: 6.000.000 đồng thì T đồng ý. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, D điều khiển xe mô tô 47B2 – 218.37 trộm cắp được, N điều khiển xe mô tô 47P1 – 159.68 đi đến khu vực đường Vành đai, thuộc địa bàn thành phố B, gửi chiếc xe mô tô trộm cắp được cho một chiếc xe khách (chưa xác định đặc điểm, biển số xe và lai lịch người vận chuyển xe) cho T. Số tiền: 6.000.000 đồng sau khi bán chiếc xe mô tô trộm cắp cho T, N và D đã chia nhau tiêu xài hết. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, không thu giữ được chiếc xe mô tô 47B2 – 218.37.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 212/KLĐG ngày 28/9/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Surius, màu sơn đen-xám, biển số 47B2 – 218.37, số máy: E3X9E163702, số khung: RLCUE3240HY063505; trị giá: 15.700.000 đồng.

Quá trình điều tra chị H D Êban, yêu cầu Hoàng Hải N phải bồi thường số tiền: 15.700.000 đồng (trị giá chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Surius, màu sơn đen-xám, biển số 47B2 – 218.37).

Vụ thứ năm: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/7/2018, Hoàng Hải N điều khiển xe mô tô biển số: 47P1 – 159.68, chở D đi trên đường M, phường T, thành phố B, tìm kiếm tài sản là xe mô tô của người dân sơ hở thì trộm cắp. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi đi ngang qua quán nhậu 33, địa chỉ: Đường M, thì cả hai nhìn thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ-đen-bạc, biển số 47U1-113.21, của ông Nguyễn Văn C, đang dựng phía trước, không có người trông coi. Lúc này, D đứng ngoài cảnh giới, còn N đi đến lén lút dùng vam phá khoá phá ổ khoá điện, dắt ra ngoài đường rồi nổ máy và điều khiển xe mô tô 47U1-113.21 đem cất giấu tại rẫy cà phê của ông Y T Niê, địa chỉ: Buôn E, thị trấn E, huyện C. Sau đó, D liên lạc thoả thuận bán chiếc xe mô tô trộm cắp được cho T với số tiền: 6.000.000 đồng thì T đồng ý. T thuê Hồ Văn N đi đến địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để vận chuyển xe mô tô do N và D trộm cắp. Đến sáng ngày 14/7/2018, N đi đến nhà nghỉ Đ, thị trấn E, huyện C, gặp N. Sau đó, N điều khiển xe mô tô 47P1 – 159.68, chở N đi đến rẫy cà phê của ông Y Tring Niê, trên đường đi N đưa cho N 01 biển số 47C1-217.88 (biển số trộm cắp ở vụ thứ ba) 01 bảo hiểm xe mô tô và 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47C1 -21788 (là giấy tờ của chị Nguyễn Thị Thu S, do N trộm cắp được tại vụ thứ

3). Khi đến nơi, N dùng cà lê tháo biển số: 47U1-113.21 vứt xuống giếng (cách vị trí để chiếc xe mô tô khoảng 10m, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được) rồi gắn biển số 47C1 -217.88 vào chiếc xe này nhằm tránh sự phát hiện. Sau đó, N ra về trước, còn N điều khiển chiếc xe này đi được khoảng 10m thì bị lực lượng Công an huyện C, tỉnh Đắk Lắk phát hiện, bắt giữ N, thu giữ: 01 giấy đăng ký xe mô tô và 01 bảo hiểm xe mô tô biển số 47C1 -217.88 mang tên Nguyễn Thị Ngọc U đều là tài sản, giấy tờ của chị Nguyễn Thị Thu S bị chiếm đoạt (vụ thứ 3); 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn đỏ-đen-bạc, gắn biển số: 47C1-217.88; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, Model 1280, màu đen; 01 cơ lê 10-14; 01 cơ lê 10 bằng kim loại; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu trắng và 01 ví da màu nâu, bên trong có số tiền 41.200 đồng. Sau đó chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 158/KLĐG ngày 24/7/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: 01 thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ-đen-bạc, biển số 47U1-113.21, số máy: JA39E0067683, số khung: RLHJA3901HY067628; trị giá: 14.400.000 đồng;

Quá trình điều tra xác định: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ-đen-bạc, số máy: JA39E0067683, số khung: RLHJA3901HY067628 (không gắn biển số) là tài sản của bà Lê Thị H (sinh năm: 1974, nơi cư trú: Buôn D, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk) cho anh Nguyễn Văn C (anh họ chị Hoài) mượn sử dụng làm phương tiện đi lại. Ngày 15/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho bà Lê Thị H, nhận quản lý sử dụng. Sau khi nhận lại tài sản bà Lê Thị H không yêu cầu bị can Hoàng Hải N phải bồi thường chi phí làm lại biển số: 47U1-113.21.

Tại Bản án số 348/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Hải N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Hải N: 05 (Năm) năm tù giam, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 19/07/2018.

Ngày 06/12/2018 bị cáo Hoàng Hải N kháng cáo bản án với nội dung: Xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và xác định: Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Hoàng Hải N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, mức hình phạt 05 năm tù giam là có phần nghiêm khắc đối với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt, xử phạt bị cáo Hoàng Hải N 04 năm tù. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bị cáo N không tranh luận gì thêm mà chỉ mong muốn Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của các bị cáo Hoàng Hải N tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Để có tiền tiêu xài, từ ngày 11/7/2018 đến ngày 17/7/2018 Hoàng Hải N đã cùng đối tượng tên D lén lút chiếm đoạt 05 chiếc xe mô tô có tổng giá trị là 80.200.000 đồng. Sau đó, D thỏa thuận bán tài sản trộm cắp được cho đối tượng tên T tiệu thụ, T thuê bị cáo Hồ Văn N vận chuyển xe từ tỉnh Đắk Lắk đến tỉnh Bình Phước giao cho T, nếu trót lọt, T trả công cho N 1.500.000đồng/01 chiếc xe. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Hoàng Hải N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo Hoàng Hải N xin giảm nhẹ hình phạt: Mức hình phạt 05 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối Hoàng Hải N là có phần nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại tòa án cấp sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, tại tòa án cấp phúc thẩm bị cáo có cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ mới, bị cáo tác động đến gia đình nên gia đình đã bồi thường được một phần nào cho người bị hại thể hiện sự ăn năn hối cải của bị cáo, gia đình bị cáo có ông nội và bà nội là người có công với cách mạng trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước được tặng thưởng huân huy chương. Do vậy, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Hải N, sửa Bản hình sự sơ thẩm số: 348/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, về phần hình phạt.

[3] Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 là không chính xác, bởi vì hành vi phạm tội của bị cáo đã được định khung phạm tội có tính chất chuyên nghiệp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần rút kinh nghiệm.

[4] Đối với bị cáo Hồ văn N có đơn kháng cáo vào ngày 06/12/2018, nhưng đến ngày 15/01/2019 bị cáo Hồ Văn N lại có đơn xin rút toàn bộ nội dung đơn kháng cáo. Xét việc bị cáo N rút đơn kháng cáo là hoàn toàn tự nguyện, nên đã được đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với đơn kháng cáo của bị cáo N.

[5] Về án phí: Do được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Hải N. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 348/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn MaThuột, tỉnh Đắk Lắk, về phần  hình phạt.

[1] Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Hải N: 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 19/07/2018.

[2] Đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 30/2019/HSPT ngày 09/01/2019 đối với bị cáo Hồ Văn N.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hoàng Hải N không phải án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HSPT ngày 21/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:76/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về