TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 76/2017/HS-ST NGÀY 27/12/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 27 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Sơn, Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 77/2017/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2017, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2017/HSST ngày 15/12/2017, đối với bị cáo:
Họ và tên: NGUYỄN VĂN H , sinh năm 1992 tại xã LQ;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm 10, xã LQ, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 10/12;
Con ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1964 và bà Hà Thị T, sinh năm 1966;
Anh, chị, em ruột: có 02 anh chị em, bị cáo là thứ hai;
Vợ, con: chưa có;
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/8/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.
+ Người bị hại: Anh Tướng Văn S, sinh năm 1989;
Địa chỉ: Xóm 14, xã LQ, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Nguyễn Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 01 giờ ngày 27/6/2017, sau khi đi hát karaoke ở quán New tại xóm phố LQ, xã TQ, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang thì Nguyễn Văn H, Đặng Mạnh Thu, Đặng Văn Ninh cùng trú tại xóm 10, xã LQ, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và một số người khác đi về nhà, Thu điều khiển xe mô tô đi trước chở H. Khi đi đến cổng UBND xã LQ thuộc xóm 8, xã LQ, huyện Yên Sơn thì xe của H gặp xe mô tô do Tướng Văn S điều khiển đi cùng chiều chở sau là Hoàng Văn Khánh cùng trú tại xóm 14, xã LQ, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Do trời mưa to, xe mô tô do S điều khiển vượt lên xe của H làm nước mưa bắn lên ướt người H. Khi cả hai xe tiếp tục đi đến khu vực cầu ông Trang thuộc xóm 10, xã LQ, huyện Yên Sơn thì xe của S lại tiếp tục vượt lên làm nước bắn vào xe mô tô và người của H. Do bực tức vì bị ướt quần áo, H bảo Thu đi nhanh vượt lên trước xe của S mục đích xem người điều khiển xe là ai. Khi đến ngã ba đường rẽ vào nghĩa trang xóm 10, xã LQ, huyện Yên Sơn thì xe của Thu vượt lên trước xe của S. H nhảy xuống xe, ra hiệu cho xe của S dừng lại. S dừng xe (vẫn ngồi trên xe mô tô), H đi đến đứng ở bên phải của S (cách khoảng 70cm) rồi cởi mũ bảo hiểm dạng lưỡi chai màu hồng đang đội trên đầu, tay phải cầm mũ vụt từ trên xuống dưới 02 nhát trúng vào vùng đầu bên phải của S, rồi lên xe bảo Thu đèo về nhà. Bị đánh, S bị choáng gục mặt xuống mặt nạ đồng hồ xe mô tô sau đó được mọi người đưa đến bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang cấp cứu.
Bản kết luận pháp y về thương tích số 108/2017/TgT ngày 16/8/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang kết luận:
- Chấn thương sọ não - tụ máu ngoài màng cứng vùng trán phải đã được phẫu thuật điều trị không có di chứng thần kinh: 25%
- Khuyết xương sọ do phẫu thuật: 16%
- Các sẹo phần mềm như trên: 10%
- Thương tích trên là do vật tầy tác động trực tiếp gây nên
- Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 43% (Bốn mươi ba phần trăm) theo phương pháp cộng lùi.
Tại Kết luận giám định số 382/GĐSH(PC54) ngày 31/7/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: dấu vết màu nâu bám dính trên mũ bảo hiểm là máu người, thuộc nhóm máu B (Nhóm máu của Tướng Văn S là nhóm máu B).
Tại bản Cáo trạng số 75/QĐ- KSĐT ngày 29 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố Nguyễn Văn H về tội Cố ý gây thương tích, theo quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 (thuộc trường hợp quy định tại đoạn 1 điểm a, đoạn 1 điểm i khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự: Dùng hung khí nguy hiểm, có tính chất côn đồ).
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng nêu, thương tích của anh Tướng Văn S là do bị cáo gây ra. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, là vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của người bị hại. Bị cáo đồng ý với bản kết luận pháp y về thương tích của người bị hại, bị cáo không đề nghị giám định lại. Bị cáo đã đến xin lỗi anh S và tác động để gia đình bị cáo bồi thường đầy đủ cho anh S. Chiếc mũ bảo hiểm cơ quan Điều tra thu giữ đã cũ, bị cáo không xin lấy lại.
Người bị hại anh Tướng Văn S trình bày: Bị cáo khai tại phiên toà là đúng, anh xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo đã đến nhà anh xin lỗi, gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh 55.000.000đ, anh không yêu cầu bồi thường gì thêm. Anh xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Những người làm chứng khai báo như đã trình bày trong quá trình điều tra. Anh Hoàng Văn Khánh trình bày trong qua trình điều tra anh khai thấy anh Đặng Văn Ninh đánh anh S là không đúng. .
Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên luận tội giữ nguyên hành vi phạm tội, tội danh, điều khoản đã truy tố bị cáo; đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự (thuộc trường hợp quy định tại đoạn 1 điểm a, đoạn 1 điểm i khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự: Dùng hung khí nguy hiểm, có tính chất côn đồ); điểm b, p khoản 1 Điều 46; Khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự Điều 33, xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 29/8/2017;
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không phải giải quyết;
Về vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu, tiêu huỷ 01 mũ bảo hiểm;
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo và người bị hại và được quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận nội dung luận tội của Kiểm sát viên, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án để bị cáo có cơ hội sớm được trở về với gia đình, xã hội.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
2. Về hành vi bị truy tố, xét xử: Tại phiên tòa bị cáo tiếp tục khai nhận hành vi như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp nhau, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra phù hợp với vật chứng thu giữ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 27/6/2017, tại khu vực đường liên xóm thuộc xóm 10, xã LQ, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Văn H vì cho rằng Tướng Văn S điều khiển xe mô tô là bắn nước lên người mình đã dùng mũ bảo hiểm đánh vào đầu của Tướng Văn S gây tổn hại 43% (Bốn mươi ba phần trăm) sức khỏe. Do đó, có đủ căn cứ quy kết bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 của Bộ luật hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm i khoản Điều 104 Bộ luật hình sự 1999). Luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
3. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi bị cáo thực hiện đối với người bị hại là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt mà cố ý thực hiện hành vi gây thương tích; Bị cáo dùng vật dụng là Mũ bảo hiểm xe mô tô là hung khí nguy hiểm; Gây tổn hại sức khoẻ cho anh S với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 43%. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của anh S với lỗi cố ý. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt tù có thời hạn - cách ly khỏi xã hội một thời gian với mức án phù hợp với tình chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; Bị cáo đã tác động người thân bồi thường cho người bị hai để khắc phục hậu quả;
Người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1; khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự; Bị cáo là người phạp tội lần đầu, có nhân thân tốt.
4. Về áp dụng pháp luật: Theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (công bố ngày 09/12/2015) quy định: Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực. Theo Luật số 12/2017QH14 quy định về Cố ý gây thương tích thì bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, nhẹ hơn khung hình phạt quy định về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 (Có khung hình phạt từ 05 năm đến 15 năm) và theo quy định của điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó khi lượng hình phạt của bị cáo thì quyết định hình phạt theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H theo tinh thần của Bộ luật hình sự số 12/2017/QH14.
5. Hình phạt áp dụng: Căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, chính sách hình sự theo quy định của pháp luật và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 1999, xử bị cáo mức án như Kiểm sát viên đề nghị tại phiên toà là phù hợp.
6. Về bồi thường dân sự và xử lý vật chứng: Bị cáo Nguyễn Văn H đã bồi thường cho bị hại Tướng Văn S số tiền 55.000.000 đồng, tại phiên toà người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết; Vật chứng là mũ bảo hiểm của bị cáo đã cũ, bị cáo không đề nghị lấy lại nên áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu huỷ.
7. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án. Bị cáo và người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của khoản 1 Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nuyễn Văn H phạm tội Cố ý gây thương tích.
Áp dụng: Áp dụng khoản 3 Điều 104 Bộ Luật hình sự năm 1999 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm i khoản 1 là: Dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ), điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự 1999; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015 được sử đổi bổ sung năm 2017 (Luật số 12/2017/QH14 ngày 20-6/2017), điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 29/8/2017.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự 1999; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu, tiêu huỷ 01 mũ bảo hiểm thu giữ của bị cáo Tình trạng vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Sơn với Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Sơn, lập ngày 04-11-2017
3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 76/2017/HS-ST ngày 27/12/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 76/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về