Bản án 75/2021/HS-PT ngày 18/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 75/2021/HS-PT NGÀY 18/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 107/2020/TLPT-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo: Đoàn Thị Bích H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2020/HS-ST ngày 09/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

Bị cáo có kháng cáo:

Đoàn Thị Bích H; sinh ngày 16 tháng 7 năm 1982, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Hữu T (đã chết) và bà Lê Thị N; có chồng Trần Quý H và 02 người con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Thị Bích H: Luật sư Nguyễn Thị H – Công ty Luật C thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế; địa chỉ: tỉnh Thừa Thiên Huế; do Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chỉ định bào chữa cho bị cáo; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo:

Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1970. Nơi cư trú: tỉnh Thừa Thiến Huế. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, không liên quan kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được xác định như sau:

Ngày 22 tháng 7 năm 2019, do cần tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân, Đoàn Thị Bích H đến nhà chị Nguyễn Thị C (Sinh ngày 06 tháng 9 năm 1970, trú tại: tỉnh Thừa Thiên Huế) vay 150.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận lãi suất 2%/tháng, đến ngày 19 tháng 8 năm 2019 trả tiền gốc và lãi. Đến thời hạn, H không có tiền trả nợ cho bà C nên H đã đi thuê chiếc xe ô tô mang biển kiểm soát số 75A - 146.35 của chị Trần Thị Lệ H1 (Sinh ngày 12 tháng 6 năm 1977, trú tại: tỉnh Thừa Thiên Huế) và hẹn ngày 03 tháng 9 năm 2019 thì trả xe ô tô cho chị H1. Khi thuê, H nói cho chị H1 biết mục đích mình thuê xe ô tô là đưa đến nhà chị C để cầm thế chấp bảo đảm khoản vay 150.000.000 đồng mà trước đó H đã vay nhưng đến nay chưa có tiền trả nợ nhằm kéo dài thời gian. Chị H1 đồng ý cho thuê, giá 500.000 đồng/01 ngày.

Sau khi thuê được xe ô tô, H đưa đến nhà chị C nói chưa có tiền trả nợ, giờ xin trả tiền lãi trước và để xe ô tô 75A - 146.35 lại làm tin, hẹn đến ngày 03 tháng 9 năm 2019 đến trả nợ và lấy xe ô tô. Chị C hỏi nguồn gốc xe ô tô thì H nói xe mua lại đang thế chấp Ngân hàng chưa sang tên. Đến thời hạn trả xe ô tô nhưng H không có tiền trả nợ cho chị C để lấy xe ô tô nên đi thuê 01 chiếc xe ô tô khác đưa đến nhà chị C đổi lấy xe ô tô 75A - 146.35 ra trả cho chị H1. Khoảng 10 giờ ngày 03 tháng 9 năm 2019, H đến nhà chị Phan Thị M (Sinh ngày 18 tháng 11 năm 1984, trú tại: tỉnh Thừa Thiên Huế) nói dối là cần thuê 01 chiếc xe ô tô để làm phương tiện đi lại trong thời hạn 30 ngày. Chị M tin tưởng đồng ý cho H thuê và hai bên thỏa thuận lập hợp đồng ký kết thuê xe ô tô nhãn hiệu MITSUBISHI, loại XPANDER, mang biển kiểm soát số 75A - 159.83 với mục đích cam kết để làm phương tiện đi lại gia đình, không kinh doanh và cầm cố thế chấp, thời hạn thuê 01 tháng, giá 16.000.000 đồng. Chị M bàn giao xe ô tô cho H kèm theo bản sao giấy đăng ký xe ô tô, H trả tiền thuê xe ô tô trước 10.000.000 đồng, còn nợ lại 6.000.000 đồng. Sau khi thuê được xe, khoảng 21 giờ cùng ngày, do trời mưa, xe số sàn, thị lực mắt kém, H sợ điều khiển xe ô tô không đảm bảo an toàn nên nhờ anh Trần Quý H (chồng của H) điều khiển xe ô tô 75A-15983 đi với mình ra nhà chị C. Đến nơi, H lấy chìa khóa xe ô tô đi vào nhà gặp chị C, còn anh H ngồi chơi ngoài sân đợi. Gặp chị C, H nói xin đổi xe ô tô để chạy khách du lịch và hẹn 30 ngày sau trả nợ lấy ô tô 75A - 159.83, Chị C hỏi nguồn gốc xe ô tô 75A - 159.83 thì H nói xe mua lại thông qua thế chấp ngân hàng chưa làm xong giấy tờ xe nên chưa chạy chờ khách du lịch được, phải đổi xe để chạy. Chị C tin tưởng cho H đổi xe và viết giấy cam kết 30 ngày sau trả tiền nợ, lấy xe ô tô. Lấy được xe ô tô 75A - 146.35, H điện thoại báo cho chị H1 biết đến lấy xe ô tô và nhờ chị H1 chở hai vợ chồng H về nhà. Đến thời hạn trả xe ô tô 75 A - 159.83 thấy H không đưa đến trả, chị M nhiều lần điện thoại cho H để đòi lại xe nhưng H đưa ra nhiều lý do rồi cắt đứt liên lạc với chị M, sau đó bỏ trốn khỏi địa phương đi vào các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên sinh sống không đăng ký tạm trú. Ngày 04 tháng 10 năm 2019, chị M viết đơn tố cáo Đoàn Thị Bích H gửi đến Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngày 18 tháng 02 năm 2020, Đoàn Thị Bích H đến C quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đầu thú và khai nhận toàn bộ nội dung vụ án như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 269/KL-HĐĐG ngày 21 tháng 10 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tổ tụng hình sự thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: 01 xe ô tô nhãn hiệu MITSUBISHI, màu son: trắng, số máy 4A91GQ4698, số khung MK2XNNC1WKN006414, xe ô tô con loại 07 chỗ ngồi, biển số: 75A - 159.83; Năm, nước sản xuất: 2019 - Indonesia, xe đăng ký ngày 05 tháng 7 năm 2019 tại thời điểm ngày 03 tháng 9 năm 2019 có giá trị là 577.505.000 đồng.

Ngày 26 tháng 02 năm 2020, C quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế ra quyết định trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế giám định chữ viết, chữ ký của Đoàn Thị Bích H trên hợp đồng thuê xe ô tô, giấy nhận tiền, giấy mượn tiền. Ngày 05 tháng 3 năm 2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận chữ viết, chữ ký mang tên Đoàn Thị Bích H trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2, A3 so với chữ viết, chữ ký đúng tên Đoàn Thị Bích H trên tài liệu mẫu ký hiện M1, M2 do cùng một người viết, ký ra (Bản kết luận giám định số: 115/GĐ).

- Về vật chứng: Ngày 11 tháng 10 năm 2019, C quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế tạm giữ xe ô tô mang biển kiểm soát số 75A- 159.83 để phục vụ công tác điều tra; Ngày 16 tháng 12 năm 2019, xét thấy việc trả lại vật chứng không ảnh hưởng đến việc điều tra, truy tố, xét xử nên C quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế ra Quyết, định xử lý vật chúng số: 14/PC01 trả lại cho chị Phan Thị M xe ô tô mang biên kiêm soát sô 75A- 159.83 và chị M đã nhận lại chiếc xe ô tô này.

- Phần dân sự: Chị Phan Thị M yêu cầu bị cáo Đoàn Thị Bích H trả 6.000.000 đồng tiền thuê xe ô tô còn nợ đến nay chưa trả.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2020/HS-ST ngày 09/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Đoàn Thị Bích H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự nãm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Đoàn Thị Bích H 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra bản còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/10/2020 bị cáo Đoàn Thị Bích H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, cùng ngày, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét đối với số tiền 150.000.000 đồng mà bị cáo Đoàn Thị Bích H đã vay của bà C. Đề nghị Tòa án cấp phúc thâm xem xét buộc bị cáo H phải trả lại số tiền 150.000.000 đồng đã vay cho Bà C.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo H và bà C giữ nguyên kháng cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Thị Bích H, trình bày: Thống nhất với tội danh của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo, tuy nhiên Luật sư cho rằng bị cáo chỉ nhằm mục đích chiếm đoạt 150.000.000 đồng của bà C, bản thân bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, mới sinh dậy nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt 7 năm 6 tháng tù là quá nặng, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Về tố tụng: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện và chấp hành đúng các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như kháng cáo của bà C, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm.

[1]. Xem xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đoàn Thị Bích H, Hội đồng xét xử xét thấy:

Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản án sơ thẩm đã xác định, do thiếu nợ 150.000.000đ của bà Nguyễn Thị C nhưng không có tiền trả, bị cáo H đã nảy sinh đi thuê tài sản xe ô tô của bà Phan Thị M để giao cho bà C để thế chấp cho khoản tiền vay mượn quá thời hạn trả nợ nhưng chưa trả được cho bà C. Khi thuê xe của bà M bị cáo đã nói dối thuê xe để sử dụng đi lại, nhưng mục đích của bị cáo H là nhằm để chiếm đoạt để cấn trừ nợ, rồi bỏ trốn. Với diễn biến nêu trên, bị cáo đã có hành vi dùng thủ đoạn gian đối để chiếm đoạt tài sản là chiếc xe ô tô trị giá 577.505.000đ của bà Phan Thị M, do vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo H phạm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4, Điều 174 Bộ luật hình sự, là có căn cứ đúng pháp luật.

Theo đơn kháng cáo, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, đồng thời trình bày do bà Nguyễn Thị C xúi dục bị cáo thuê xe để cấn trừ nợ, bị cáo có nộp 1USB, 1 bản sao kê tin nhắn hội thoại giữa bị cáo với bà C, ngoài ra bị cáo cho rằng bà C cho vay lấy lãi 4.000đ/ngày/1 triệu đối với bị cáo là hành vi cho vay nặng lãi.

Xét thấy, với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, theo quy định tại khoản 4, Điều 174 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét về quá trình nhân thân, hoàn cảnh gia đình, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng Điều 54 xử phạt bị cáo 7 năm 6 tháng tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là nhẹ so với quy định của pháp luật, việc bị cáo cũng như Luật sư trình bày do bị cáo có con nhỏ, điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn chỉ là điều kiện để xem xét hoãn thi hành án phạt tù, không phải là tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Đối với việc bị cáo cho rằng bà Nguyễn Thị C đã xúi dục bị cáo đi thuê xe của người khác để cầm cố, xét thấy, trên cơ sở lời khai của bị cáo, của bà C có trong hồ sơ vụ án, cũng như tại phiên tòa phúc thẩm thì lời trình bày của bị cáo là không có cơ sở chứng minh, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận.

Từ những nhận định nêu trên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên phần Quyết định về hình phạt tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2020/HS-ST ngày 09/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đối với bị cáo.

[2]. Xem xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị C, bà C cho rằng: Bị cáo Đoàn Thị Bích H có vay của bà C số tiền 150.000.000đồng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã bỏ sót, nay bà yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm buộc bị cáo H phải trả cho bà C, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Quan hệ vay mượn tiền giữa bị cáo với bà C là giao dịch dân sự, tại Bản án hình sự sơ thẩm không xem xét, giải quyết nên không thuộc phạm vi xem xét của Hội đồng xét xử phúc thẩm, trường hợp có tranh chấp thì bà Nguyễn Thị C có thể yêu cầu giải quyết bằng một quan hệ dân sự khác. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà C.

Do không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Thị Bích H và kháng cáo của bà Nguyễn Thị C nên bị cáo H và bà C phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự đối với bà M, án phí sơ thẩm do không có kháng cáo Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1, điều 355, điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đoàn Thị Bích H và không chấp nhận kháng cáo yêu cầu về dân sự của bà Nguyễn Thị C, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2020/HS-ST ngày 09/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 174; điểm b, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Đoàn Thị Bích H 7 năm 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm, áp dụng Điều 23; Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí, lệ phí tòa án.

Bị cáo Đoàn Thị Bích H phải chịu 200.000 đồng án phí. Bà Nguyễn Thị C phải chịu 300.000đồng án phí.

3. Đối với các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

433
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2021/HS-PT ngày 18/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:75/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về