Bản án 75/2021/HNGĐ-ST ngày 17/09/2021 về ly hôn 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VB, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 75/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 17 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 149/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021 về Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 572021/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị A; đăng ký hộ khẩu thường trú: Cụm Z, thôn NG, xã VQ, huyện VB, thành phố Hải Phòng; nơi ở: Thôn PT1, xã HT, huyện VB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thế D; nơi cư trú: Cụm Z, thôn NG, xã VQ, huyện VB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị A trình bày: Chị và anh Nguyễn Thế D kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VQ, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 27-4-2016. Quá trình chung sống, anh chị hoà thuận thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính cách không hòa hợp nên đã xảy ra bất hòa. Từ đầu năm 2020 đến nay, chị đã về gia đình ở thôn PT1, xã HT, huyện VB, thành phố Hải Phòng sinh sống. Vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau, đối xử với nhau lạnh nhạt. Nay chị Lê Thị A xác định tình nghĩa vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Thế D.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Thế D không có con chung.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Thế D đến Tòa án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng để giải quyết việc chị Lê Thị A xin ly hôn, tuy nhiên anh D đều vắng mặt không có lý do. Anh D không đưa ra bất cứ quan điểm nào về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng đồng thời phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về: Thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách của những người tham gia tố tụng; thu thập chứng cứ, việc xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và các hoạt động tố tụng khác. Nguyên đơn, đã chấp hành yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án như việc giao nộp chứng cứ, tham gia phiên họp, phiên hòa giải theo quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành yêu cầu của Tòa án như không nộp bản tự khai, không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải, tại phiên tòa bị đơn vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên việc bị đơn vi phạm quyền và nghĩa vụ tố tụng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.

Về nội dung vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Lê Thị A được ly hôn với anh Nguyễn Thế D. Về con chung: Chị Anh và anh D không có con chung nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Chị Lê Thị A không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Lê Thị A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Anh Nguyễn Thế D có hộ khẩu thường trú tại Cụm Z, thôn NG, xã VQ, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án ly hôn giữa chị Lê Thị A và anh Nguyễn Thế D thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng.

[2] Tại phiên tòa, chị Lê Thị A có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Thế D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, tuy nhiên anh D vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Lê Thị A và anh Nguyễn Thế D.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị A và anh Nguyễn Thế D kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VQ, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 27-4-2016, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị hoà thuận thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng tính cách không hòa hợp, luôn bất đồng quan điểm nên đã xảy ra bất hòa. Từ đầu năm 2020 đến nay, vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chị Lê Thị A nhận thấy tình nghĩa vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Thế D. Quá trình giải quyết vụ án, anh D đã nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, tuy nhiên anh D không khai báo, không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải, phiên tòa, không có quan điểm về việc chị Lê Thị A xin ly hôn. Điều này không chỉ thể hiện việc anh D đã tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật được bảo vệ mà còn thể hiện việc thiếu thiện trí trong việc hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Qua đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Lê Thị A và anh Nguyễn Thế D đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, yêu cầu của chị Lê Thị A xin ly hôn với anh Nguyễn Thế D phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Lê Thị A và anh Nguyễn Thế D không có con chung, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị Lê Thị A không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Lê Thị A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 146, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị A được ly hôn với anh Nguyễn Thế D.

2. Về con chung: Chị Lê Thị A và anh Nguyễn Thế D không có con chung nên Tòa án không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Lê Thị A không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Anh đã nộp tạm ứng 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện VB theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0017637 ngày 08-6-2021. Chị Lê Thị A đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2021/HNGĐ-ST ngày 17/09/2021 về ly hôn 

Số hiệu:75/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về