Bản án 75/2020/HSST ngày 25/11/2020 về tội cố ý gây thương tích và tội gây rối trật tự công cộng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 75/2020/HSST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình thụ lý số: 69/2020/TLST- HS ngày 20/ 10 /2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2020/QĐXXST- HS ngày 13/ 11 /2020 đối với các bị cáo:

1- Ngô Minh T: Sinh năm 1995. Giới tính : Nam Trú tại: Xóm M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 12/12, Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông: Ngô Tiến B và con bà Nguyễn Thị Tú A.

Vợ Phạm Thị Kim C, con chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 16/6/2020. Có mặt tại phiên tòa

2-Lê Hồng H: Sinh năm 1995.

Trú tại: Xóm T, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Giới tính: Nam. Trình độ văn hóa: 12/12, Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông: Lê Viết M và con bà Ngụy Thị L.

Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17 tháng 6 năm 2020. Có mặt tại phiên tòa.

3-Ngô Tiến M: Sinh năm 1991.

Trú tại: Xóm M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không.

Trình độ văn hóa: 12/12, Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Ngô Tiến B và con bà Nguyễn Thị Tú A.

Vợ Đặng Thị Thùy T, con có một người 01 tuổi. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2018 bị Công an huyện Q xử phạt 2.500.000đ về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác. Đã chấp hành xong.

Bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 17/6/2020 đến ngày 10/10/2020 thì được tại ngoại.

Có mặt tại phiên tòa -Người bị hại: Anh Hồ Văn M, sinh năm 1994. Có mặt.

Trú tại: Xóm H, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1-Ông Ngô Tiến B, sinh năm 1964. Có mặt.

Trú tại: Xóm M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

2-Anh Trần Anh Đ, sinh năm 1996. Vắng mặt. Trú tại: Xóm T, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

3-Anh Đậu Đức H, sinh năm 1995. Có mặt. Trú tại: Xóm T, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

4-Anh Hoàng Mạnh D, sinh năm 1988. Có mặt.

Trú tại: Khối 8, thị trấn Q, tỉnh Nghệ An.

5-Chị Phạm Thị Kim C, sinh năm1996.Có mặt. Trú tại: Xóm T, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

6- Anh Lê Hoàng D, sinh năm 1992. Có mặt. Trú tại: Xóm Đ, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Người m chứng:

1- Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1980. Vắng mặt. Trú tại: Xóm H, xã T, huyện Q, Nghệ An.

2- Anh Phạm Ngọc Đ, sinh năm 1991.Vắng mặt. Trú tại: Xóm H, xã T, huyện Q, Nghệ An.

3- Anh Trần Anh Đ, sinh năm 1996. Vắng mặt. Trú tại: Xóm T, xã T, huyện Q, Nghệ An.

4-Anh Phan Tất T, sinh năm 1977. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm B, xã T, huyện Q, Nghệ An.

4- Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa: Không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 14/6/2020, do có mâu thuẫn trước đó với Phạm Ngọc Đ nên Ngô Minh Tr và Phạm Ngọc Đ hẹn nhau đến cầu Dinh xã T để nói chuyện. Sau đó Ngô Minh Tr đã về nhà lấy một khẩu súng thể thao, trong súng có một viên đạn và cầm theo hai viên đạn bỏ vào túi quần, một con dao dài 40cm đưa cho Lê Hồng H (bạn của T) rồi bảo H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS 37H1-074.71 đến cầu Dinh thuộc địa phận xã T, huyện Q để nói chuyện với Đ. Khi T và H vừa dừng xe lại trên cầu thì nhóm của Đ gồm Hồ Văn M, Phạm Ngọc Đ và Phan Tất T có chạy đến giằng co khẩu súng với Ngô Minh Tr, trong đó Hồ Văn M là người chạy đến chổ Tr trước. Trong quá trình giằng co khẩu súng với Tr, do khẩu súng có đạn sẵn nên khẩu súng đã bị cướp cò, phát nổ và trúng vào người của Hồ Văn M làm M bị thương. Lúc này Phạm Ngọc Đ và Phan Tất T tiếp tục vào giằng co khẩu súng với Ngô Minh Tr thì bị Lê Hồng H dùng con dao mang theo chém hai nhát vào lưng của T nên T bỏ chạy. Sau đó Hải cùng T giằng co khẩu súng với Phạm Ngọc Đ và H đã lấy được khẩu súng từ tay của Đ. Ngô Minh Tr giật lấy con dao trên tay của H và chém một nhát vào hông bên trái của Đ. Lúc này Ngô Tiến M vừa lái xe ô tô nhãn hiệu Toyota Camry, BKS 37A-365.57 đến và dừng xe cách chổ Tr, H, Đ và T đang xô xát và đánh nhau khoảng 7 mét, M xuống xe rút khẩu súng bắn đạn cao su mang theo ra bắn bốn phát chỉ thiên, làm cho Đ, T và mọi người tản ra. Sau đó M, Tr, H điều khiển xe ô tô và xe mô tô bỏ chạy khỏi khu vực cầu D theo hướng xã T thị trấn Q. Quá trình bỏ chạy lên hướng thị trấn Q thì Ngô Minh Tr đã vứt con dao xuống cạnh đường khu vực nghĩa trang xã T, khi đến cầu N thì Trí vứt khẩu súng thể thao này xuống cầu N, M khi đến cầu N cũng đã vứt khẩu súng bắn đạn cao su xuống sông N thị trấn Q.

Hậu quả anh Hồ Văn M bị một vết thương ở cánh tay phải và một vết thương ở vùng ngực với tỷ lệ thương tích là 16%, Phan Tất T bị các vết thương rách da, bầm tụ máu ở vùng lưng bên phải, Phạm Ngọc Đ bị một vết thương rách da, bầm tụ máu tại khu vực hông trái. Nhưng T và Đ từ chối giám định thương tích và không yêu cầu xử lý đối với hành vi gây thương tích do Ngô Minh Tr và Lê Hồng H gây ra.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 191/TTPY ngày 19/6/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Nghệ An kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Hồ Văn M là 16% (Mười sáu phần trăm).

Về vật chứng:

- Một khẩu súng có chiều dài 111,5 cm, báng súng làm bằng gỗ, nòng súng bằng kim loại thu giữ của Ngô Minh T.

- Một khẩu súng ngắn có chiều dài 18,5cm, một bên thân súng có dòng chữ “ ZO RAKI MOD 917-TD”, thân súng còn lại có dòng chữ „ MADE BY ATA K ARMS LTD, Cal.9mm P.A.K” “ 0918-00607” thu giữ của Ngô Tiến M.

- 05 vỏ đạn và 02 viên đạn.

- 03 chiếc dép.

- 01 Thanh kiếm bằng kim loại, phần lưỡi kiếm dài 20 cm, màu trắng, phần lưỡi kiếm được bọc ngoài bằng bao kiếm thu giữ tại nơi ở của Ngô Tiến M.

- 01 phong bì thư bên trong có chứa giấy, vỏ bao niêm phong.

- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đồng, BKS 37H1-074.71 thu giữ tại nhà Hoàng Mạnh D - 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Itel màu đen, loại bàn phím thu giữ của Phạm Thị Kim C.

- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 11, màu đỏ thu giữ của Đậu Đức H.

- 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Camry, BKS 37A-365.57 thu giữ tại nhà của Lê Hoàng D.

- 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota màu bạc BKS 37C-185.85 thu giữ của Đậu Đức H.

- 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, màu bạc BKS 37A-563.08 thu giữ của Trần Anh Đ.

Tại bản kết luận số 219/KL-KTHS, ngày 22/6/2020 của phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Các mẫu vật ký hiệu M1, M4, M5, M6 gửi đến giám định là võ của đạn cao su, cỡ 9,22 m m, thuộc công cụ hỗ trợ, các võ đạn này do súng bắn đạn cao su, đạn hơi cay cỡ nòng 9mm bắn ra. Mẫu ký hiệu M7 gửi đến giám định là võ của đạn cỡ 5,6 x 15,5 mm thuộc vũ khí thể thao, võ đạn này do súng thể thao bắn ra.

Các mẫu vật được ký hiệu lần lượt M2, M3 gửi đến giám định là võ đạn cỡ 5,6 x 15,5 mm thuộc vũ khí thể thao.

Khẩu súng ghi do Ngô Minh Tr giao nộp gửi tới giám định có các ký hiệu 1964, B CCC, 6835 là súng thể thao, sản xuất năm 1964 tại Liên Xô (cũ), số súng 6835(Riêng phần báng gỗ được gia công lại). Súng sử dụng loại đạn cỡ 5,6x15,5m m thuộc vũ khí thể thao.

Tại bản kết luận số 229/KL-KTHS ngày 25/6/2020 của phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Khẩu súng ngắn có các ký hiệu “ Z ORAKI MOD 917-TD” “ MADE BY ATAK ARMS LTD, Cal.9mm P.A.K” “ 0918- 00607” thu giữ của Ngô Tiến M gửi tới giám định là súng bắn đạn cao su, đạn hơi cay cỡ nòng 9 mm thuộc công cụ hộ trợ.

Tại bản kết luận số 4265/C09-P3, ngày 16/7/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận: 05 võ đạn gửi giám định có ký hiệu M1, M4, M5, M6 do khẩu súng bắn đạn cao su thu giữ của Ngô Tiến M bắn ra.

Võ đạn gửi giám định ký hiệu M7 do khẩu súng thể thao thu giữ của Ngô Minh Tr bắn ra. Khi sử dụng khẩu súng thu của Ngô Minh T bắn đạn có ký hiệu M2,M3, vào cơ thể người gây chết hoặc bị thương.

Xét thấy chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Camry, BKS 37A-365.57 thu giữ tại nhà của Lê Hoàng D là chiếc xe ô tô do bị cáo Ngô Tiến M sử dụng đi lên cầu Dinh phạm tội, đây là ô tô thuộc quyền sở hữu của ông Ngô Tiến B, anh Đậu Đức H dùng xe ô tô của mình chở bị cáo M đi xuống V sau khi phạm tội, việc phạm tội của bị cáo M là ông B, anh D là người cho gửi chiếc xe này và anh H là chở bị cáo M xuống V là không biết.

Anh Hoàng Mạnh D cho các bị cáo Tr, H mượn xe máy để bỏ trốn thì anh D không biết các bị cáo phạm tội, việc bị cáo Trí bán chiếc xe máy của anh D là được anh D đồng ý, việc này hai bên đã giải quyết xong, nay anh D không có yêu cầu gì nữa. Chiếc xe máy thu tại nhà của anh Hoàng Mạnh D qua xác minh thì đây là xe máy do bị cáo Tr gửi lại nhà anh D, chiếc xe này có đăng ký mang tên ông Phan Văn V, nhưng ông V đã bán lại cho ông Ngô Tiến B, việc bị cáo Tr dùng chiếc xe này đi phạm tội là ông B không biết.

Đối với anh Trần Anh Đ chở anh Phạm Ngọc Đ lên cầu D đề đánh nhau với các bị cáo Tr, H là anh Đ không tham gia và không có bàn bạc gì, do vậy không liên quan trong vụ án.

Đối với chiếc điện thoại mà chị Phạm Thị Kim C tự nguyện giao nộp cho Công an là điện thoại di động của bị cáo Ngô Minh Tr không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Tr.

Trong quá trình điều tra Cơ quan Điều tra Công an huyện Q xử lý vật chứng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo đúng theo quy định của pháp luật, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét. Số vật chứng còn lại cần xử lý theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xẩy ra Ngô Minh Tr, Lê Hồng H đã tác động gia đình bồi thường đầy đủ cho người bị hại là anh Hồ Văn M, nay anh M không có yêu cầu gì nữa.

Bản cáo trạng số: 73/CT-VKSQH, ngày 19/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An truy tố các bị cáo Ngô Minh Tr, Lê Hồng H về tội “ Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS. Ngô Tiến M về tội “ Gây rối trật tự công cộng” quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Ngô Minh Tr, Lê Hồng H về tội “ Cố ý gây thương tích” Ngô Tiến M về tội “ Gây rối trật tự công cộng” như Bản cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 và điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Ngô Minh Tr từ 12 đến 15 tháng tù, bị cáo Lê Hồng H từ 9 đến 12 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 318, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Ngô Tiến M từ 4 đến 6 tháng tù.

Đối với Phạm Ngọc Đ, Phan Tất T bị Ngô Minh Tr, Lê Hồng H chém bị thương nhưng Đ, T từ chối giám định nên không xem xét.

Áp dụng khoản 1Điều 318, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Ngô Tiến M từ 4 đến 6 tháng tù.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[ 1 ]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng.

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 2 ]. Những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội.

Lời khai của bị cáo, người bị hại, người làm chứng, Kết luận giám định pháp y của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Nghệ An, Kết luận giám định số 219/KL-KTHS, ngày 22/6/2020, Kết luận số 229/KL-KTHS, ngày 25/6/2020 của phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An và KL số 4265/C09-P3, ngày 16/7/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ công an. Các bị cáo Ngô Minh Tr, Lê Hồng H đã phạm tội như sau: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 14/6/2020 do có mâu thuẫn nên Ngô Minh Tr và Phạm Ngọc Đ hẹn nhau lên cầu D xã T để nói chuyện. Ngô Minh Tr đã về nhà lấy 01 khẩu súng thể thao trong súng có 01 viên đạn, 01 con dao dài 40 cm đưa cho Lê Hồng H ( bạn của Tr) rồi bảo H chở lên Cầu D để nói chuyện với Đ. Tr bảo H lấy xe máy nhãn hiệu Wave, BKS 37H-071.74 chở Tr đến Cầu D, khi Tr và H vừa dừng xe trên Cầu D thì nhóm của Đ, gồm Hồ Văn M, Phạm Ngọc Đ, Phan Tất T chạy đến chổ Tr và H dừng xe, trong đó Hồ Văn M là chạy đến chổ Tr trước và giằng co khẩu súng với Tr, do trong súng có đạn nên bị cướp cò phát nổ vào người của Hồ Văn M, làm M bị thương. Lúc này Đ, T vào giằng co súng với Tr thì bị H dùng dao chém vào lưng của T nên T bỏ chạy. Lúc này Ngô Tiến M vừa lái xe ô tô nhãn hiệu Toyota Camry, BKS 37A-365.57 đến dừng xe cách chổ Tr, Đ, T đang giằng co súng với nhau khoảng 07 mét rồi rút khẩu súng bắn đạn cao su ra bắn bốn phát chỉ thiên, làm cho Đ, T mọi người tản ra. Sau đó M điều khiển xe ô tô và Tr, H điều khiển xe máy chạy hướng thị trấn Q để trốn. Khi đi đến xã T thì Tr vứt con dao xuống khu vực nghĩa trang xã T, khi đến cầu N thì Tr, H và M vứt súng xuống cầu N.

Hậu quả Hồ Văn M bị thương tích là 16%. T và Đ cũng bị thương nhưng đều từ chối giám định. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố các bị cáo Ngô Minh Tr, Lê Hồng H về tội “ Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS và Ngô Tiến M về tội “ Gây rối trật tự công cộng) theo khoản 1 Điều 318 BLHS là có căn cứ.

[ 3]. Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Các bị cáo Ngô Minh Tr, Lê Hồng H và Ngô Tiến M đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của công dân mà được pháp luật bảo vệ và xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi này gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm mất ổn định trật tự tại địa bàn. Đây là một vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng cố ý thực hiện một tội phạm nhưng không có sự bàn bạc, phân công trước.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Ngô Minh Tr không có tiền án, tiền sự, nhân thân, bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tác động gia đình bồi thường cho bị hại, bố bị cáo là người có công, bị hại anh M có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo đầu thú đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1,2 Điều 51 BLHS.Trong vụ án bị cáo có vai trò chính, đó là đã rủ bị cáo H lên cầu D để đánh nhau với nhóm của Đ. Do vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có đủ điều kiện cải tạo trở thành một con người tốt cho gia đình và xã hội.

Đối với Lê Hồng H chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tác động gia đình bồi thường cho bị hại, bố bị cáo là người có công, bị hại anh M có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo đầu thú đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS. Trong vụ án bị cáo có vai trò giúp sức, đó là đã chở Tr lên cầu D để đánh nhau với nhóm của Đ. Do vậy cũng cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có đủ điều kiện cải tạo trở thành một con người tốt cho gia đình và xã hội.

Đối với Ngô Tiến M chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bố bị cáo là người có công, bị cáo đầu thú đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS. Do vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có đủ điều kiện cải tạo trở thành một con người tốt cho gia đình và xã hội.

[ 4] Về phần dân sự các bị cáo đã bồi thường đầy đủ, nay bị hại không có yêu cầu gì nữa. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[ 5 ] Vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan Điều tra Công an huyện Q xử lý vật chứng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo đúng theo quy định của pháp luật, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét. Số vật chứng còn lại cần xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Trần Anh Đ là người dùng ô tô của mình chở Phạm Ngọc Đ lên cầu D để nhóm của Đ đánh nhau với các bị cáo Tr, H, việc này Đ không tham gia nên không có cơ sở để xử lý.

Đối với Phạm Ngọc Đ bị Ngô Minh Tr chém bị thương, Phan Tất T bị H chém bị thương, nhưng Đ và T đều từ chối giám định nên không xem xét xử lý Tr và H về hành vi này.

Đối với ông Ngô Tiến B cho bị cáo Tr và bị cáo M dùng ô tô và xe máy của mình đi phạm tội, Đậu Đức H chở Ngô Tiến M đến thành phố V, Hoàng Mạnh D cho bị cáo Tr và H mượn xe máy bỏ trốn, Lê Hoàng D là cho bị cáo M gửi xe ô tô sau phạm tội, những người này không biết việc phạm tội của các bị cáo Ngô Minh Tr, Lê Hồng H và Ngô Tiến M, cho nên không có cơ sở để điều tra xử lý về trách nhiệm hình sự.

[ 6 ] Về án phí. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ngô Minh Tr, Lê Hồng H phạm tội “ Cố ý gây thương tích”. Ngô Tiến M phạm tội “ Gây rối trật tự công cộng”

- Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, 54 BLHS.

- Xử phạt bị cáo Ngô Minh Tr: 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 16/ 6/2020.

- Xử phạt bị cáo Lê Hồng H: 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 17/ 6/2020.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 318, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Ngô Tiến M: 03 (Ba) tháng 25 (hai mươi lăm) ngày tù (tạm giam từ ngày 17/6/2020 đến 10/10/2020) bằng thời hạn tạm giam.

Vật chứng: Giao cho Công an huyện Q, tỉnh Nghệ An tịch thu tiêu hủy 01khẩu súng có chiều dài 111,5 cm, báng súng làm bằng gỗ, nòng súng bằng kim loại thu giữ của Ngô Minh Tr và 01 khẩu súng ngắn có chiều dài 18,5cm, một bên thân súng có dòng chữ “ ZO RAKI MOD 917-TD”, một bên thân súng còn lại có dòng chữ „ MADE BY ATA A RMSLTD, Cal.9 mm P.A.K” thu giữ của Ngô Tiến M, 05 vỏ đạn và 02 viên đạn. Các vật chứng này hiện đang bảo quản tại Cơ quan điều tra Công an huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Tịch thu tiêu hủy ba chiếc dép, 01 thanh kiếm bằng kim loại thu của Ngô Tiến M, 01 phong bì thư, trả lại cho bị cáo Ngô Minh Tr 01 điện thoại di động Itel màu đen, trả lại cho ông Ngô Tiến B 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại WAVE, BKS 37H1- 074.71. Chi tiết thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/10/2020 của Chi Cục thi hành án huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Ngô Minh Tr, Lê Hồng H và Ngô Tiến M mỗi bị cáo phải chịu án phí HSST là 200.000 đ (Hai trăm nghìn) đồng.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tỉnh Nghệ An. Người người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

403
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2020/HSST ngày 25/11/2020 về tội cố ý gây thương tích và tội gây rối trật tự công cộng

Số hiệu:75/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về