Bản án 75/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 75/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường ủy ban nhân dân Lộc Thành, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 74/2019/TLST-HS ngày 14/11/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2019/QĐXXST-HS ngày 15/11/2019 đối với:

Họ và tên: K’B ; Tên gọi khác: K’Bì; sinh năm 1997; Nơi sinh: Lâm Đồng; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: K’Ho; Tôn giáo: Không; NKTT và chỗ ở: Thôn 4, xã L, huyện B , tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn:

4/12; Con ông K’N (đã chết); Con bà Ka Th, sinh năm 1969; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 25/09/2018 bị Công an huyện Bảo Lâm xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; Nhân thân: Năm 2013 bị đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng theo Quyết định số 4554/QĐ ngày 28/10/2013 của Ủy ban nhân dân huyện Bảo Lâm. Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Lâm theo Quyết định tạm giam số 62/2019/HSST-QĐTG ngày 25/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm do bị xét xử ở vụ án khác “Có mặt tại phiên tòa”.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị Thanh Th , sinh năm 1985 và ông Nguyễn Ngọc Vi , sinh năm 1981 ; địa chỉ: Thôn 8, xã L, huyện B , tỉnh Lâm Đồng. “Chị Th có mặt, ông Vi vắng mặt”

- Anh K’Nh , sinh ngày 15/7/2002; địa chỉ: Thôn 4, xã L, huyện B , tỉnh Lâm Đồng. Đại diện hợp pháp: bà Ka Th , sinh năm 1969; Thôn 4, xã L, huyện B , tỉnh Lâm Đồng “Vắng mặt”

 - Ông K’C , sinh ngày 06/3/2005; địa chỉ: Thôn 4, xã L, huyện B , tỉnh Lâm Đồng. Đại diện hợp pháp: Bà Ka M , sinh năm 1984 và ông K’Cả sinh năm 1984;

địa chỉ: Thôn 4, xã L, huyện B , tỉnh Lâm Đồng “Anh K’C , bà Ka M có mặt, ông K’Cả vắng mặt”.

- Ông Hoàng Kim Bí , sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn 12, xã Lộc Thành, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:” Vào sáng ngày 11/03/2019, sau khi chơi điện tử xong thì anh K’Nh và anh K’C rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Cả hai đi đến khu vực thôn 8, xã L, huyện B thì phát hiện nhà của bà Nguyễn Thị Thanh Th không có ai ở nhà, cửa chính bị khóa. Anh K’Nh , K’C dùng 01 đoạn cây gỗ, 01 đoạn cây sắt nhặt được gần đó phá khóa cửa chính, vào trong nhà tìm tài sản. Anh K’Nh lấy được số tiền 8.500.000 đồng trong túi áo treo tại phòng ngủ và 09 bao thuốc lá hiệu Seven Diamonds ở nhà bếp. Cả hai tẩu thoát ra ngoài, chia nhau mỗi người 4.250.000 đồng, riêng 09 bao thuốc lá thì K’Nh cầm. Số tiền có được, anh K’C mang cất giấu tại nhà 3.800.000 đồng còn lại tiêu xài cá nhân. Riêng anh K’Nh tiêu xài cá nhân hết 750.000 đồng, số tiền 3.500.000 đồng còn lại và 09 bao thuốc lá thì mang về nhà. Tại đây, anh K’Nh gặp bị cáo K’B là anh trai ruột của mình, anh K’Nh đưa cho bị cáo K’B số tiền 3.500.000 đồng và nói là tiền do mình trộm cắp được. Bị cáo K’B mặc dù biết rõ anh K’Nh trộm cắp tiền nhưng vẫn sử dụng 500.000 đồng tiêu xài cá nhân sau đó dẫn anh K’Nh đến tiệm mua bán xe máy 37H của ông Hoàng Kim Bí tại thôn 12, xã Lộc Thành, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng mua 01 xe mô tô biển số 51X8-1131 với giá 3.500.000 đồng, bị cáo K’B trả trước cho ông Bí 3.000.000 đồng và nợ lại số tiền 530.000 đồng rồi cả hai đi về nhà.

Theo Kết luận định giá số 77/KLĐG ngày 22/08/2019 của Hội đồng định giá Tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm: 09 bao thuốc lá hiệu Seven Diamonds tại thời điểm bị trộm cắp được định giá 108.000 đồng.

Theo Kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 2060/C09B ngày 18/04/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, tại thời điểm tháng 04 năm 2019, anh K’Nh có độ tuổi từ 12 năm 06 tháng đến 13 năm 06 tháng.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, không thắc mắc, không khiếu nại hay tranh luận gì.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh Th đã nhận lại số tiền 6.800.000 đồng; bà Th và người đại diện hợp pháp cho anh K’C không yêu cầu gì, không thắc mắc, không khiếu nại hay tranh luận gì.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo K’B từ 06 tháng đến 09 tháng tù, áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt của bản án số 59/2019/HSST ngày 25/10/2019 buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án và buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy đinh.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để có cơ hội sửa chữa sai lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:” [01] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[02] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đã có cơ sở xác định:

Bị cáo K’B biết rõ số tiền 3.500.000đ do em trai K’Nh đưa cho bị cáo có nguồn gốc là do ngày 11/3/2019 anh K’Nh và anh K’C đến nhà bà Nguyễn Thị Thanh Th tại Thôn 8, xã L, huyện B , tỉnh Lâm Đồng trộm cắp được. Bị cáo đã cầm số tiền này tiêu xài hết 500.000đ và dẫn K’Nh đến tiệm mua bán xe máy 37H của ông Hoàng Kim Bí tại thôn 12, xã Lộc Thành, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng mua 01 xe mô tô biển số 51X8-1131 với giá 3.500.000 đồng.

Hành vi biết rõ số tiền 3.500.000đ do em trai bị cáo trộm cắp được đưa cho bị cáo nhưng bị cáo vẫn sử dụng và tiêu xài đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[03] Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình vi vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nghiêm nhưng vẫn cố tình vi phạm. Để có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo cũng như phòng ngừa chung cho xã hội, Hội đồng xét xử cần phải áp dụng cho bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với hành vi của bị cáo đã gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[04] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn. Vì vậy bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[05] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu thể hiện qua việc bị Ủy ban nhân dân huyện Bảo Lâm đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng theo Quyết định số 4554/QĐ ngày 28/10/2013.

[06] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trước khi phạm tội này, bị cáo đã phạm tội “cố ý gây thương tích” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nhưng đến ngày 25/10/2019 mới bị xét xử nên không được xem là trường hợp tái phạm. Do đó, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[07] Ngày 25/10/2019, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 02 năm tù về tội “Cô ý gây thương tích”, 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nên áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

[08] Anh K’Nh và K’C đã có hành vi trộm cắp của bà Nguyễn Thị Thanh Th 8.500.000 đồng và 09 bao thuốc lá Seven Diamonds trị giá 108.000 đồng. Tuy nhiên, tại thời điểm thự chiện hành vi phạm tội anh K’Nh chưa đủ 14 tuổi, anh K’C chưa đủ 15 tuổi nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh K’Nh , anh K’C . Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lâm đã ra quyết định xử lý hành chính hình là đúng quy định pháp luật. Ông Hoàng Kim Bí có hành vi bán xe cho các bị cáo K’B và anh K’Nh nhưng khi bán không biết số tiền các đối tượng sử dụng là do trộm cắp mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Bí là đúng quy định của pháp luật.

[09] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu nên không xem xét.

[10] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 thanh gỗ dài 55 cm, dày 05 cm, rộng 05 cm.

[11] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh, điều luật và hình phạt:

- Tuyên bố bị cáo K’B phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

xử phạt bị cáo K’B 09 (Chín) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của bản án này với hình phạt 36 tháng tù của bản án số 59/2019/HSST ngày 25/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng, buộc chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 45 (Bốn mươi lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/6/2019.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 thanh gỗ dài 55 cm, dày 05 cm, rộng 05 cm.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án buộc bị cáo K’B phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 26/11/2019; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm, Người liên quan chỉ được quyền kháng cáo phần có liên quan.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 75/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:75/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về