Bản án 75/2019/HSST ngày 09/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 75/2019/HSST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2019/HSST ngày 29 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2019/HSST-QĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thế H, sinh ngày 29/01/1981 tại Thái Bình. Nơi cư trú: Số nhà 05/08, ngách 05, ngõ 04, đường D, tổ 17, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Thế H và bà: Nguyễn Thị H; vợ: Nguyễn Thị Thùy D (đã ly hôn); con: Có 01 con; nhân thân: Từ tháng 4/2001 đến tháng 9/2007 tham gia nghĩa vụ quân sự. Quyết định số 2883/QĐ-UBND ngày 17/12/2010 và Quyết định số 1288/QĐ-CT ngày 07/6/2012 của Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình về việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm chữa bệnh, Giáo dục, Lao động xã hội; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 184/2018/HSST ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, xử phạt Nguyễn Thế H 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa thi hành bản án; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/01/2019 đến 24/01/2019 chuyển tạm giam cho đến nay.

* Bị hại: Anh Đặng Văn T, sinh năm 1985.

Trú tại: Thôn T, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

(Bị cáo có mặt, anh T vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ ngày 18/01/2019 H đi vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình với mục đích trộm cắp xe máy. Khoảng 12 giờ 15 phút cùng ngày H phát hiện tại hành lang dãy nhà D có 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 17B1-020.16 của anh Đặng Văn T dựng tại đó xe không khóa cổ, khóa càng. H quan sát không có người trông coi. H lén lút tiến lại gần chiếc xe dùng tay phải lấy bộ vam phá khóa ở túi quần đã chuẩn bị sẵn rồi ngồi lên yên xe dùng tay đẩy đầu nhọn của vam vào ổ khóa điện của xe rồi dùng hai tay bẻ xoắn vam theo chiều kim đồng hồ phá khóa điện của chiếc xe. Khi phá và mở được khóa điện của xe, H cất bộ vam vào túi quần rồi nổ máy phóng xe ra đường Lý Bôn đi về nhà ở. H dùng kìm tháo biển số xe, bỏ biển số xe và bộ vam phá khóa vào túi bóng đen mang ra cầu đá thuộc phường Phú Khánh, thành phố Thái Bình vứt xuống sông Pari. Đến 17 giờ 30 cùng ngày H lên Công an thành phố Thái Bình để đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội và giao nộp lại chiếc xe mô tô đã trộm cắp.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi như bản cáo trạng miêu tả là đúng.

Bản cáo trạng số 67/CT-VKSTPTB ngày 28/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố: Bị cáo Nguyễn Thế H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, khoản 1 Điều 52; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 56 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 1 năm 03 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt của bản án số 184/2018/HSST ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 năm 06 tháng đến 03 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/01/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

* Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

* Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên là các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với các bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và được chứng minh bằng:

- Biên bản khám nghiệm hiện trường và Sơ đồ hiện trường.

- Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú.

- Biên bản xác định vị trí địa điểm.

- Biên bản làm việc và bản ảnh đối tượng trộm cắp trong hình ảnh Camera.

- Đơn trình báo và biên bản ghi lời khai của người bị hại: Anh Đặng Văn T.

- Kết luận định giá tài sản số 03/KLĐG-CATP ngày 22/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 17B1-020.16 có giá trị tại thời điểm ngày 22/01/2019 là 16.700.000 đồng.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 18/01/2019 tại hành lang dãy nhà D khoa phẫu thuật thần kinh cột sống Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình, Nguyễn Thế H có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 17B1-020.16 của anh Đặng Văn T. Trị giá tài sản là giá 16.700.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thế H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Điều 173. Tội “Trộm cắp tài sản” quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nH thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

...

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được Pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Trong thời gian chờ thi hành án bị cáo lại tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm minh mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, đã hai lần bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc, bị cáo không có tiền sự, có 01 tiền án: Tại Bản án số 184/2018/HSST ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình bị cáo chưa thi hành nên bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có thời gian tham gia quân đội, bị cáo ra đầu thú, các tình tiết này được giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

* Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

* Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Chấp nhận việc cơ quan Điều tra đã trả cho anh Đặng Văn T chiếc xe nhãn hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 17B1-020.16. Biển số chiếc xe mô tô và bộ vam phá khóa mà bị cáo vứt xuống sông Pari tại phường Phú Khánh, thành phố Thái Bình cơ quan Điều tra đã tổ chức tìm kiếm nhưng không thu hồi được.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Anh T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí về việc sửa ổ khóa điện và thay biển số xe nên không đặt ra giải quyết.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, khoản 1 Điều 52; điểm s, khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 56 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 135; Điều 331; 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tội danh - Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thế H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.Tổng hợp với hình phạt của bản án số 184/2018/HSST ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/01/2019.

3. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (09/5/2019). Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2019/HSST ngày 09/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:75/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về