TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 748/2020/HC-PT NGÀY 17/12/2020 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Trong ngày 17 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 386/2020/TLPT-HC ngày 14 tháng 7 năm 2020 về việc: Khiếu kiện Quyết định hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 07/2020/HC-ST ngày 18/05/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3503/2020/QĐPT-HC ngày 08 tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:
* Người khởi kiện:
1. Bà Nguyễn Thanh Th, sinh năm: 1975; Địa chỉ: ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Thoản: ông Nguyễn Hoàng L; sinh năm: 1958. Địa chỉ: 48/10 Huỳnh Việt Thanh, Phường 2, thành phố Tân An, tỉnh Long An, (có mặt).
2. Ông Lê Văn N, sinh năm: 1963;
3. Bà Huỳnh Thị Th, sinh năm: 1967;
4. Ông Lê Văn S; sinh năm: 1986;
5. Ông Lê Văn Đ; sinh năm: 1971;
Cùng địa chỉ: ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông N, bà Th, ông S, ông Đ: ông Võ Văn V; sinh năm: 1957. Địa chỉ: 17/23C Lưu Văn Tế, Phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An, (có mặt).
* Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Đào Ngọc Th1, chức vụ: Phó chủ tịch UBND huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
Ông Trần Bá Tr, Chức vụ: Phó trưởng phòng Phòng tài nguyên và môi trường huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, (có mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Võ Văn Qu, sinh năm: 1930. Địa chỉ: ấp An Thạnh, xã An Ninh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Qu: bà Võ Bích Th2, địa chỉ: 01, Tú Mỡ, phường 7, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Thủy: ông Nguyễn Xuân H, địa chỉ:
02.04, lầu 2, tòa nhà Newton Residence, số 38, Trương Quốc Dung, phường 8, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Qu:
Ông Cao Lương Thuận thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).
2. Bà Lê Thị Ch, sinh năm: 1967. Địa chỉ: ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
3. Bà Lê Châu Th, sinh năm: 1991. Địa chỉ: ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
4. Bà Lê Thị Y, sinh năm: 1985. Địa chỉ: ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
5. Bà Lê Thị Th, sinh năm: 1979. Địa chỉ: ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
Bà Ch, bà Th, bà Y, bà Th có đơn xin xét xử vắng mặt.
* Người làm chứng: Ngô Văn R, sinh năm: 1964. Địa chỉ: ấp 5, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Người khởi kiện - Nguyễn Thanh Th do ông Nguyễn Hoàng L đại diện theo ủy quyền trình bày:
Nguồn gốc thửa đất 2174 diện tích 6.154m2, tờ bản đồ số số 3, tọa lạc xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An do cha bà Thoản là ông Rết khai phá từ năm 1975, năm 1995 bà Thoản được cha mẹ cho quản lý sử dụng trồng lúa cho đến nay. Nhưng vào năm 1998, UBND huyện Đức Huệ, tỉnh Long An lại cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Văn H. Đến năm 2000, ông Hoanh chết và năm 2007, ông Võ Văn Qu được UBND huyện Đức Huệ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do khai nhận di sản thừa kế. Vào tháng 6/2019, ông Võ Văn Qu tranh chấp quyền sử dụng đất tại UBND xã Mỹ Thạnh Tây thì bà Thoản mới biết thửa 1274 mà bà Thoản đang quản lý sử dụng đã được cấp cho ông Võ Văn Qu. Do đó, bà Nguyễn Thanh Th khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét hủy 01 phần Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Đức Huệ đã cấp cho ông Võ Văn Qu đối với thửa 1274 ngày 04/9/2017.
* Người khởi kiện - Lê Văn N, Huỳnh Thị Th, Lê Văn S và Lê Văn Đ do ông Võ Văn Vân đại diện theo ủy quyền trình bày:
- Phần đất của ông Lê Văn Đ: Nguồn gốc các thửa 1823 diện tích 412m2, thửa 2190 diện tích 2.345m2, thửa 2186 diện tích 1.015m2, thửa 2506 diện tích 339m2, thửa 2508 diện tích 1.370m2, 01phần thửa 2507 (trên sơ đồ hiện tại thì thửa 2507 diện tích 20.380m2 được tách thành các thửa 3324 diện tích 2.696m2, thửa 4064 diện tích 4.064m2, thửa 3258 diện tích 2.130m2, 3259 diện tích 6.607m2 và 2507, phần còn lại diện tích 4.882m2, trong đó ông Đ sử dụng là thửa 3324 và 3258), thửa 2185 diện tích 1.485m2, thửa 2509 diện tích 2.401m2, thửa 3256 diện tích 132m2, thửa 197 diện tích 2.390m2, 01 phần thửa 2184 diện tích 834m2 (thửa 2184 diện tích 2.330m2) và 01 phần thửa 152 diện tích 408m2 (thửa 152 diện tích 3891m2). Các thửa 197, 152 thuộc tờ bản đồ số 2, các thửa còn lại thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An là của cha ông Lê Văn Đ là ông Lê Văn Cẩn khai phá và sử dụng từ năm 1978, năm 2000, ông Cẩn cho ông Đ quản lý sử dụng đến nay. Vào tháng 6 năm 2019, ông Lê Văn Đ mới biết các thửa đất trên đã được UBND huyện Đức Huệ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ông Võ Văn Qu. Do đó, ông Lê Văn Đ yêu cầu Tòa án xem xét hủy 01 phần Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền và hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Đức Huệ cấp cho ông Võ Văn Qu năm 2007 đối với các thửa đất nêu trên.
- Phần đất ông Lê Văn S: Nguồn gốc thửa 2507 diện tích 20.380m2, ông Sang sử dụng 01 phần thửa 2507 diện tích 6.607m2 (hiện trên bản đồ là thửa 3259 là một phần của thửa 2507 sau khi bản đồ tách thửa 2507 thành 05 thửa), tờ bản đồ số 3, tọa lạc xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An do cha ông Sang là ông Lê Văn Sanh khai phá năm 1978 và đến năm 2008 ông Sanh cho ông Lê Văn S sử dụng đến nay. Vào tháng 6 năm 2019, ông Lê Văn S mới biết các thửa đất trên đã được UBND huyện Đức Huệ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ông Võ Văn Qu. Do đó, ông Lê Văn S yêu cầu Tòa án xem xét hủy Quyết định cấp Giấy và hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Đức Huệ cấp cho ông Võ Văn Qu năm 2007 đối với các thửa đất nêu trên.
- Phần đất của bà Huỳnh Thị Th: Nguồn gốc các thửa 150 diện tích 2.214m2 và 152 diện tích 3.483m2, tờ bản đồ số 2 và các thửa 2173 diện tích 7.301m2, thửa 2176 diện tích 1.164m2, thửa 2177 diện tích 1.613m2, thửa 2180 diện tích 432m2, thửa 2181 diện tích 1.290m2, thửa 1282 diện tích 624m2, thửa 2183 diện tích 7.301m2, thửa 2184 diện tích 1.496m2 và 01 phần thửa 3256 diện tích 1.048m2 (thửa 3256 diện tích 1.854m2) cùng thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An do cha bà Nguyễn Thị Thanh là ông Rết khai phá từ năm 1975 đến năm 1985 cho bà Thanh sử dụng đến nay. Vào tháng 6 năm 2019, bà Nguyễn Thị Thanh mới biết các thửa đất trên đã được UBND huyện Đưc Huệ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ông Võ Văn Qu. Do đó, bà Nguyễn Thị Thanh yêu cầu Tòa án xem xét hủy 01 phần Quyết định cấp Giấy và hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Đức Huệ cấp cho ông Võ Văn Qu năm 2007 đối với các thửa đất nêu trên.
- Phần đất của ông Lê Văn N: Nguồn gốc các thửa 2187 diện tích 1.546m2, thửa 2189 diện tích 4.527m2, 01 phần thửa 2506 diện tích 13.176m2 (thửa 2506 diện tích 13.594m2) và thửa 3256 diện tích 674m2, tờ bản đồ số 3, tọa lạc xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An do cha ông Lê Văn N là ông Lê Văn Cẩn khai phá năm 1978 đến năm 1982 cho ông Non sử dụng đến nay. Vào tháng 6 năm 2019, ông Lê Văn N mới biết các thửa đất trên đã được UBND huyện Đức Huệ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ông Võ Văn Qu. Do đó, ông Lê Văn N yêu cầu Tòa án xem xét hủy phần Quyết định cấp Giấy và hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Đức Huệ cấp cho ông Võ Văn Qu năm 2007 đối với các thửa đất nêu trên.
* Người bị kiện-Ủy ban nhân dân huyện Đức Huệ có văn số 1551/UBND-TNMT ngày 12/5/2020 trình bày:
Nguồn gốc các phần đất mà những người khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu xem xét hủy Quyết định cấp giấy và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của ông Võ Văn H và bà Đỗ Thị D khai vỡ và làm từ trước năm 1975.
Quá trình sử dụng đất sau năm 1975 theo từng giai đoạn: từ năm 1980 đến năm 1993 thì ông Võ Văn H (là con của ông H, bà D) có khai vỡ tái hoang sản xuất lúa được 2-3 năm. Đến năm 1993 thì ông Hoanh để lại 01 phần cho ông Nguyễn Văn R (cha của bà Th, cha chồng bà Th), đến năm 1985 thì ông Rết để lại cho bà Th, bà Th quản lý sử dụng đến nay; 01 phần Lê Văn S (cha ông Lê Văn S) canh tác từ năm 1991, 1992 và khi ông S chết thì ông S canh tác đến nay. Riêng các thửa đất còn lại thì ông Lê Văn Đ và ông Lê Văn N canh tác từ năm 1992 đến nay.
Nay những người khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định cấp Giấy và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì UNBD huyện Đức Huệ nhận thấy đã hết thời hiệu theo quy định tại Điều 116 Luật Tố tụng hành chính. Do đó, đề nghị Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - Võ Văn Qu do ông Nguyễn Văn Đến và bà Nguyễn Kim Phụng đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ông Võ Văn Qu không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của những người khởi kiện Th, Th, Đ, N và S. Lý do, nguồn gốc đất ông Qu được thừa kế từ cha là Võ Văn H. Ông Đến và bà Phụng đại diện theo ủy quyền cho ông Qu thừa nhận toàn bộ các thửa đất nêu trên là do các ông bà Thoản, Thanh, Đ, Non và Sang sử dụng nhưng do mượn đất của ông Hoanh. Khi ông Hoanh đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì những người khởi kiện đều biết, khi ông Hoanh chết thì ông Qu có tổ chức cuộc họp thân tộc xác định lại số đất đai của ông Hoanh. Ngày 06/7/2003, tại biên bản họp thân tộc những người khởi kiện thừa nhận và xác định có làm số đất của ông bà, nếu lấy lại thì trả, còn nếu bán giá thỏa thuận thì mua. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người khởi kiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại thời hiệu khởi kiện do hết thời hiệu khởi kiện.
*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Lê Thị Ch, Lê Châu Th, Lê Thị Y và Lê Thị Th có văn bản trình bày:
- Lê Thị Ch là chị của ông Lê Văn Đ có cất nhà diện tích 5m x 16m kết cấu vách tường, mái lá, nền đất nằm trên 01 phần thửa đất 1823, tờ bản đồ số 3. Nguồn gốc ông Đ cho bà Chọn cất nhà ở từ năm 1992 đến nay.
- Lê Châu Th là con của ông Lê Văn Đ có cất nhà diện tích 5m x 20m kết cấu vách tường, mái tole, nền gạch nằm trên 01 phần thửa 1823, tờ bản đồ số 3. Nguồn gốc do ông Đ cho ra riêng từ năm 2016 đến nay.
- Lê Thị Y là con của ông Lê Văn N có cất nhà diện tích 5m x 18m kết cấu vách tường, mái tole, nền gạch nằm trên 01 phần thửa 2189, tờ bản đồ số 3. Nguồn gốc do ông Non cho ra riêng từ năm 2007 đến nay.
- Lê Thị Th là cháu của ông Lê Văn Đ (kêu ông Đ bằng chú) có cất nhà diện tích 5m x 12m kết cấu vách lá, mái tole, nền xi măng nằm trên 01 phần thửa 2185, tờ bản đồ số 3. Nguồn gốc do ông Đ cho ra riêng từ năm 1978 đến năm 1998 sửa chữa lại cho đến nay.
Ngoài ra, bà Lê Thị Ch, Lê Thị Th, Lê Thị Y và Lê Châu Th yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 07/2020/HCST ngày 18-5-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:
Căn cứ Điều 30, Điều 32 và Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Điều 106, Điều 105 và Điều 100 Luật đai đai; Điều 32 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của UBTV Quốc hội về án phí, lệ phí của Tòa án.
Tuyên xử :
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thanh Th, ông Lê Văn N, bà Huỳnh Thị Th, ông Lê Văn S và ông Lê Văn Đ về yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của UBND huyện Đức Huệ, tỉnh Long Long An.
Hủy 01 phần Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1834/QĐ-UBND ngày 04/9/2007của UBND huyện Đức Huệ về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Văn Qu khu đất tọa lạc tại ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây.
Hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Đức Huệ cấp cho ông Võ Văn Qu cùng ngày 04/9/2007 gồm: số vào sổ 01175 thửa 2174 diện tích 6.154m2; số vào sổ 01183 thửa 150 diện tích 2.214m2; số vào sổ 01188 thửa 152 diện tích 3891m2; số vào sổ 01174 thửa 2173 diện tích 7.301m2; số vào sổ 01165 thửa 2176 diện tích 1.164m2; số vào sổ 01192 thửa 2177 diện tích 1.613m2; số vào sổ 01203 thửa 2180 diện tích 1.432m2; số vào sổ 01195 thửa 2181 diện tích 1.290m2; số vào sổ 01162 thửa 1282 diện tích 624m2; số vào sổ 01202 thửa 2183 diện tích 877m2; số vào sổ 01172 thửa 2184 diện tích 2.330m2;
số vào sổ 01190 thửa 1823 diện tích 874m2; số vào sổ 01180 thửa 2190 diện tích 2.507m2; số vào sổ 01163 thửa 2186 diện tích 1.015m2; số vào sổ 01200 thửa 2506 diện tích 13.594m2; số vào sổ 01185 thửa 2508 diện tích 1.408m2; số vào sổ 01181 thửa 2507 diện tích 20.380m2; số vào sổ 01179 thửa 2185 diện tích 1.480m2; số vào sổ 01201 thửa 2509 diện tích 2.401m2; số vào sổ 01186 thửa 197 diện tích 2.420m2; số vào sổ 01196 thửa 2187 diện tích 1.546m2 và số vào sổ 01170 thửa 2189 diện tích 4.494m2. Các thửa 197, 150 và 152 thuộc tờ bản đồ số 02, các thửa còn lại thuộc tờ bản đồ số 03, tọa lạc tại ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
Buộc UBND huyện Đức Huệ có trách nhiệm cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa đất trên cho đúng đối tượng sử dụng đất là bà Nguyễn Thanh Th, ông Lê Văn N, bà Huỳnh Thị Th, ông Lê Văn S và ông Lê Văn Đ theo quy định của Luật đất đai.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân tỉnh Long An còn quyết định về chi phí thẩm định, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 29/5/20220, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Võ Văn Qu có đơn kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm.
Ngày 01/6/2020, UBND huyện Đức Huệ, tỉnh Long An có đơn kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm: người kháng cáo là đại diện theo ủy quyền của UBND huyện Đức Huệ, Long An; đại diện theo ủy quyền của ông Võ Văn Qu vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đề nghị không chấp nhận kháng cáo của người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 07/2020/HC-ST ngày 18/5/2020 về việc khiếu kiện Quyết định hành chính nhà nước trong quản lý về đất đai của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của Viện kiểm sát, của người khởi kiện, người bị kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về hình thức đơn kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Ngày 29/5/2020 Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn Qu kháng cáo yêu cầu bác toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện và sửa bản án hành chính sơ thẩm.
Ngày 01/6/2020 Người bị kiện là UBND huyện Đức Huệ, tỉnh Long An kháng cáo yêu cầu bác toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện và sửa bản án hành chính sơ thẩm.
Đối chiếu với bản án sơ thẩm đã xét xử thì thấy: [1] Về đối tượng khởi kiện:
Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1834 ngày 04/9/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Huệ và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các thửa: 2174; 150; 152; 2173; 2176; 2177; 2180, 2181, 2182, 2183, 2184, 1823, 2190, 2186, 2506, 2508, 2507, 2185, 2509, 197, 2187 và thửa 2189 là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là phù hợp. [2] Thời hiệu khởi kiện:
Trong vụ án này cấp sơ thẩm xác định còn thời hiệu khởi kiện là không có căn cứ. Bởi lẽ: theo quy định tại Điều 116 Bộ Luật tố tụng hành chính quy định về thời hiệu để khởi kiện vụ án hành chính là: “01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính”.
Ông Võ Văn Qu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định số 1834/QĐ-UBND ngày 04/9/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Huệ (trên cơ sở thừa kế từ ông Võ Văn H. Ông Hoanh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1998). Tại cuộc họp gia tộc ngày 06/7/2003 thì những người khởi kiện bà Thoản, bà Thanh, ông Non, ông Đ đều biết việc ông Hoanh được cấp giấy trước năm 2003 và thừa nhận họ đang làm số đất này nếu lấy lại thì trả, còn nếu bán giá thỏa thuận thì mua. Như vậy, dù biên bản cuộc họp gia tộc ngày 06/7/2003 không có giá trị về mặt pháp lý nhưng cũng chứa thông tin đất họ đang canh tác đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Võ Văn H. Do đó, nếu cho rằng họ không biết việc ông Hoanh đứng tên quyền sử dụng đất là không có căn cứ. Mặt khác, tại biên bản tiếp dân hướng dẫn ngày 10/8/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đức Huệ đã hướng dẫn các ông bà khởi kiện có nội dung: “ đất ông Võ Văn Qu đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân huyện đề nghị các ông bà khởi kiện ra Tòa án giải quyết”. Như vậy nếu tính từ thời điểm ngày 10/8/2018 đến thời điểm các ông bà Lê Văn N, Lê Văn Đ, Huỳnh Thị Th, Lê Văn S khởi kiện (Tòa án thụ lý ngày 17/01/2020) đã hơn 01 năm, nên thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính theo Luật tố tụng hành chính đã hết. Do đó, cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của người bị kiện và của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, hủy đình chỉ bản án sơ thẩm hành chính số 07/2020/HC-ST ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
[2] Nhận định của Tòa án: xét thấy cấp sơ thẩm đã xét xử chưa phù hợp theo luật định, lẽ ra trong trường hợp này cấp sơ thẩm không thụ lý vụ án hành chính mà hướng dẫn các đương sự khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất mới phù hợp . Do đó, cấp phúc thẩm cần thiết phải hủy toàn bộ vụ án hành chính sơ thẩm số 07/2020/HC-ST ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc “khiếu kiện Quyết định hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai” và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự.
Hoàn trả lại cho người khởi kiện án phí hành chính sơ thẩm;
Hoàn trả lại cho người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, án phí hành chính phúc thẩm.
Tại phiên tòa ngày hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát cấp cao đề nghị không chấp chấp nhận đơn kháng cáo của người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm là không phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 4 Điều 241 của Luật tố tụng hành chính năm 2015;
1. Hủy toàn bộ vụ án hành chính sơ thẩm số 07/2020/HC-ST ngày 18/5/2020 về việc “khiếu kiện Quyết định hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai” của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và đình chỉ việc giải quyết vụ án.
2. Án phí hành chính:
+ Án phí phúc thẩm:
- Hoàn trả 300.000 đồng tiền án phí hành chính phúc thẩm đã nộp cho người bị kiện theo biên lai thu số 0000934 ngày 01 tháng 6 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
- Hoàn trả 300.000 đồng tiền án phí hành chính phúc thẩm đã nộp cho ông Võ Văn Qu (do bà Phan Thị Trúc Ly nộp thay) theo biên lai thu số 0000947 ngày 09 tháng 6 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
+ Án phí sơ thẩm:
- Hoàn trả 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm đã nộp cho người khởi kiện là ông Lê Văn N (do ông Võ Văn V nộp thay) theo biên lai thu số 0000725 ngày 25 tháng 12 năm 2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
- Hoàn trả 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm đã nộp cho người khởi kiện là bà Huỳnh Thị Th (do ông Võ Văn V nộp thay) theo biên lai thu số 0000724 ngày 25 tháng 12 năm 2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
- Hoàn trả 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm đã nộp cho người khởi kiện là ông Lê Văn S (do ông Võ Văn V nộp thay) theo biên lai thu số 0000765 ngày 08 tháng 01 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
- Hoàn trả 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm đã nộp cho người khởi kiện là ông Lê Văn Đ (do ông Võ Văn V nộp thay) theo biên lai thu số 0000766 ngày 08 tháng 01 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
- Hoàn trả 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm đã nộp cho người khởi kiện là Nguyễn Thanh Th (do ông Võ Văn V nộp thay) theo biên lai thu số 0000779 ngày 17 tháng 01 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 748/2020/HC-PT ngày 17/12/2020 về khiếu kiện quyết định hành chính quản lý đất đai
Số hiệu: | 748/2020/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 17/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về