Bản án 74/2021/HNGĐ-ST ngày 09/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 74/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 09 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 337/2021/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132 /2021/QĐXX - ST ngày 24 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Th - Sinh năm 1987

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Tr - Sinh năm 1990

Cùng địa chỉ: 21/124 N, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. (Anh Th và chị Tr đều có đơn xin xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Văn Th trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Tr kết hôn với nhau vào ngày 21 tháng 9 năm 2015 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đông Hương, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi vã, mâu thuẫn của vợ chồng đã được bạn bè và hai bên gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Nay anh Th xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đề nghị Tòa giải quyết cho anh được ly hôn anh Nguyễn Thị Tr.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Nguyễn Nhật Linh A, sinh ngày 11/6/2016 và cháu Nguyễn Minh Đ sinh ngày 11/11/2019. Anh Th đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Nhật Linh A, giao cháu Nguyễn Minh Đ cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản công nợ chung: Anh Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, Bị đơn chị Nguyễn Thị Tr trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn chị Tr đồng ý như anh Th trình bày. Chị Tr cho rằng, sau khi kết hôn, đến năm 2019 vợ chồng chung sống có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do cả hai không có tiếng nói chung, thường xuyên cãi nhau, do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2019 đến nay. Nay anh Th có đơn xin ly hôn, chị Tr cũng xác định tình cảm không còn nên chị đồng ý ly hôn.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Nguyễn Nhật Linh A, sinh ngày 11/6/2016 và cháu Nguyễn Minh Đ sinh ngày 11/11/2019. Chị Tr đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, công nợ: Chị Tr không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình anh Th và chị Tr sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể địa phương không nắm được, chỉ biết nay anh chị đã ly thân, không thấy anh Th đi về nhà. Nay anh Th có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Về con: Chị Tr và anh Th có 02 con chung, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng đề nghị Tòa án căn cứ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của đương sự, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định.

Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án giải quyết: Xử cho anh Th được ly hôn chị Tr, giao cháu Nguyễn Nhật Linh A cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Minh Đ cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay anh Th và chị Tr đều có đơn xin xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự để giải quyết vắng mặt anh Th và chị Tr là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Th và chị Nguyễn Thị Tr kết hôn với nhau năm 2015 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án, anh Th xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng đã sống ly thân, anh Thuận tha thiết xin được ly hôn.

Tại các bản tự khai cả anh Th và chị Tr đều thống nhất ly hôn, tuy nhiên do chị Tr không đến Tòa án để tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, anh Thuận có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải mà đưa vụ án ra giải quyết theo thủ tục chung. Do Tòa án không thể tiến hành hòa giải để ghi nhận sự tự nguyện ly hôn của anh chị được, tuy nhiên điều đó chứng tỏ cả hai anh chị đều xác định không còn tình cảm với nhau nữa, anh chị đã sống ly thân và đồng ý ly hôn.

Qua xác minh tại địa phương thể hiện hiện: Trong quá trình anh Th và chị Tr chung sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn và hiện nay anh chị đã sống ly thân.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn giữa chị Tr và anh Th đã đến mức trầm trọng, cả hai không còn tình cảm với nhau. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật HN&GĐ xử cho anh Th được ly hôn chị Tr là phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Nguyễn Nhật Linh A, sinh ngày 11/6/2016 và cháu Nguyễn Minh Đ sinh ngày 11/11/2019. Anh Th đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Nhật Linh A, giao cháu Nguyễn Minh Đ cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Tại đơn xin xử vắng mặt. Chị Tr đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu, vì cháu Minh Đ chưa đủ 36 tháng tuổi, cháu Linh A phát triển chậm, ở với bố rất bất tiện, anh Th thường xuyên công tác xa nhà, nên chị Tr yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu và yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

HĐXX xét thấy, cả anh Th và chị Tr đều có mong muốn được nuôi con chung. Tuy nhiên, hiện cả hai anh chị đều có việc làm và thu nhập ổn định, do đó để đảm bảo cuộc sống cho các cháu nên cần giao mỗi người trực tiếp nuôi dưỡng một cháu là phù hợp pháp luật. Nguyễn Minh Đ sinh ngày 11/11/2019 (Cháu chưa đủ 36 tháng tuổi) nên cần giao cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Nhật Linh A cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về yêu cầu cấp dưỡng: Do anh Th không yêu cầu cấp dưỡng. Mặt khác giao cho mỗi người nuôi một cháu, nên các bên không phải cấp dưỡng là phù hợp pháp luật.

[4] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, anh Thuận phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật..

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 227; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Văn Th được ly hôn chị Nguyễn Thị Tr.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Nhật Linh A, sinh ngày 11/6/2016 và cháu Nguyễn Minh Đ sinh ngày 11/11/2019 là con chung của anh Thuận và chị Trang. Giao cháu Nguyễn Nhật Linh Anh cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng; Giao cháu Nguyễn Minh Đ cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Văn Th và chị Nguyễn Thị Tr có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Anh Nguyễn Văn Th phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh Th đã nộp theo biên lai số AA/2019/0012654 ngày 07/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (Anh Thuận đã nộp đủ án phí).

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2021/HNGĐ-ST ngày 09/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:74/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về