Bản án 74/2020/HNGĐ-ST ngày 23/09/2020 về tranh chấp ly hôn giữa anh Trần Văn Th, chị Phạm Thị Y

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 74/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA ANH TRẦN VĂN TH, CHỊ PHẠM THỊ Y

Ngày 23 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 195/2020/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn Th, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình

2. Bị đơn: Chị Phạm Thị Y, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn C, xã N, huyện Q, tỉnh Thái Bình

(Các đương sự có đơn xin giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/7/2020 và trong bản tự khai, nguyên đơn là anh Trần Văn Th trình bày: Anh và chị Phạm Thị Y tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình ngày 04/3/2003. Vợ chồng chung sống đến tháng 10/2003 thì chị Y bỏ về gia đình bố mẹ đẻ ở xã N sinh sống cho đến nay, nguyên nhân do tính vợ chồng không hợp. Sau khi chị Y về, anh có sang nhà chị Y, khuyên chị Y quay về đoàn tụ nhưng chị Y không về. Từ đó đến nay vợ chồng không quan tâm đến nhau; nay anh thấy vợ chồng không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, anh xin được ly hôn chị Y.

Vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử, anh Th có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh vì lý do công việc anh không thể có mặt để tham gia tố tụng tại phiên tòa.

Đối với bị đơn là chị Phạm Thị Y: Sau khi nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án, chị Y đã làm đơn xin giải quyết vắng mặt, trong đơn chị trình bày về thời gian, điều kiện kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng như anh Th đã khai. Chị xác nhận chị đã về gia đình bố mẹ đẻ sinh sống từ cuối năm 2003 đến nay, chị xác định không còn tình cảm với anh Th, chị nhất trí ly hôn; chị và anh Th không có con chung, không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì lý do công việc, chị từ chối tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt chị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định

[1] Về tố tụng: Anh Trần Văn Th khởi kiện xin ly hôn chị Phạm Thị Y có nơi cư trú tại xã N, huyện Q, tỉnh Thái Bình, căn cứ các điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; nguyên đơn và bị đơn đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Trần Văn Th và chị Phạm Thị Y xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình cấp giấy chứng nhận kết hôn số 39 ngày 04/3/2003 là hôn nhân hợp pháp. Anh Th và chị Y đều thừa nhận, do tính tình không hợp dẫn đến anh chị chỉ chung sống với nhau được bảy tháng, sau đó chị Y về gia đình bố mẹ đẻ sinh sống. Mặc dù sau khi chị Y bỏ về, anh Th có sang tìm, khuyên chị Y quay về đoàn tụ nhưng chị Y không chấp nhận, từ cuối năm 2003 đến nay anh chị không còn quan tâm đến nhau. Nay anh Th xin ly hôn, chị Y cũng nhất trí và từ chối tham gia hòa giải, điều đó cho thấy hôn nhân của anh chị trên thưc tê chi còn tồn tại về mặt hình thức , vì vậy cần xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Th xử cho anh Th được ly hôn chị Y là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về nuôi con chung và chia tài sản: Anh Trần Văn Th và chị Phạm Thị Y đều khai vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung nên không phải giải quyết.

[3] Về án phí: Anh Trần Văn Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân  sự  và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo: Anh Trần Văn Th và chị Phạm Thị Y có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 228, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều  27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Trần Văn Th được ly hôn chị Phạm Thị Y.

2. Về nuôi con chung và chia tài sản: Không có nên không giải quyết.

3. Về án phí: Anh Trần Văn Th phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh Th đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004484 ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình thành tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Trần Văn Th và chị Phạm Thị Y có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2020/HNGĐ-ST ngày 23/09/2020 về tranh chấp ly hôn giữa anh Trần Văn Th, chị Phạm Thị Y

Số hiệu:74/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về