Bản án 74/2020/HNGĐ-ST ngày 08/12/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 74/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 08 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 899/2020/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2020 về việc: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”. theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 177/2020/QĐXX-ST ngày 23 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Tô Thị T, sinh năm: 1989 Trú tại: 258/28/2, đường B, phường 5, quận 8, thành phố H. Có mặt.

Bị đơn: Ông Bùi Trường G, sinh năm: 1987 Trú tại: Đường D10, khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh B. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 10/10/2020, bản tự khai ngày 20/10/2020 và lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn bà Tô Thị T trình bày:

Bà T và ông G đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân phường T, thị xã B, tỉnh B. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau một thời gian chung sống thì thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Từ năm 2014, mâu thuẫn trở nên trầm trọng, ông G thường xuyên đánh đập bà T nên bà T bỏ ra ngoài sinh sống. Sau đó vợ chồng về hàn gắn nhưng vẫn mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống, hay gây gỗ, cải vã nhau. Hiện vợ chồng đã ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay. Hiện vợ chồng không ai còn quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho nhau.

Bà T nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể duy trì hôn nhân.

Do đó, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau: Về hôn nhân: Bà T yêu cầu được ly hôn với ông G.

Về con chung: Bà T và ông G có 01 con chung tên Bùi Minh Đ, sinh ngày 17/6/2011, hiện đang sống với bà T. Bà T yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 20/10/2020 và lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án bị đơn ông Bùi Trường G trình bày:

Ông G thống nhất với toàn bộ lời trình bày của bà T về thời điểm chung sống, việc đăng ký kết hôn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn.

Về nguyên nhân mâu thuẫn, ông G cho rằng vợ chồng có nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cãi vả nhau. Ông G nóng tính nên hay đập đồ đạc trong nhà và có vài lần đánh bà T. Hiện hai vợ chồng đã sống riêng. Ông G vẫn lui tới thăm nom con nhưng bà T ngăn cấm. Tuy nhiên, bà T yêu cầu ly hôn ông G không đồng ý ly hôn vì muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Về con chung: Có 01 con chung là Bùi Minh Đ, sinh ngày 17/6/2011, hiện đang sống với bà T. Ông G không đồng ý ly hôn nên không yêu cầu giải quyết về con chung. Tuy nhiên, nếu Tòa án xét xử thì ông G đồng ý giao con cho bà T được tiếp tục nuôi con và ông G phải được thăm nom con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đồng thời ông G có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và vắng mặt tại phiên tòa.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào mới. Bị đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào mới.

Kiểm sát viên đại diện VKSND thị xã Bến Cát phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Đề nghị HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

- Về nội dung vụ án: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp về ly hôn, nuôi con; bị đơn ông Bùi Trường G có nơi cư trú tại phường T, thị xã B, tỉnh B. Căn cứ vào các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Về sự vắng mặt của bị đơn: Bị đơn đã có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo thủ tục chung được quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

Bà T và ông G là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thị xã B, tỉnh B vào năm 2011. Như vậy, hôn nhân giữa bà T và ông G là hôn nhân hợp pháp.

Theo bà T, quá trình chung sống vợ chồng bà thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, không hợp tính tình nên hay gây gỗ, cãi vả nhau, ông G thường xuyên xúc phạm, đánh đập bà. Nay mâu thuẫn hôn nhân đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và không thể hàn gắn được nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông G.

Xét thấy, tại Bản tự khai và Biên bản hòa giải ngày 20/10/2020, bị đơn ông G cũng thừa nhận vợ chồng ông thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn. Hiện nay vợ chồng đã ly thân và cuộc sống hai bên đều không quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho nhau mà mạnh ai người đó sống.

Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn hôn nhân giữa bà T và ông G đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên việc bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông G là có căn cứ chấp nhận. Do đó, xét thấy cần chấp nhận cho bà T được ly hôn với ông G để sớm ổn định cuộc sống giữa hai bên theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Bà T có yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Bùi Minh Đ, sinh ngày 17/6/2011 và không yêu cầu ông G phải cấp dưỡng nuôi con. Theo biên bản lấy ý kiến của cháu Đức ngày 20/10/2020 tại Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương có sự chứng kiến của người giám hộ là bà T và ông G đã thể hiện cháu Đức có nguyện vọng được ở cùng với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Xét thấy, cháu Đức hiện nay đã trên 07 tuổi và nguyện vọng của cháu là hoàn toàn chính đáng, phù hợp. Xem xét đến nguyện vọng và để đảm bảo sự phát triển ổn định về tâm, sinh lý của cháu thì cần giao cháu cho bà T trực tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo nguyện vọng của theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về việc cấp dưỡng: Ông Bùi Trường G không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà T không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6] Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 228; Điều 147 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tô Thị T đối với bị đơn ông Bùi Trường G về việc: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”:

- Về hôn nhân: Bà Tô Thị T được ly hôn với ông Bùi Trường G.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Bùi Minh Đ, sinh ngày 17/6/2011 cho bà Tô Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Ông G được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung. Không ai được cản trở ông G trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích hợp pháp của con chung, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con sau này nếu có yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không tranh chấp, nên không đặt ra xem 2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Tô Thị T phải nộp 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số AA/2016/0048243 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Bà T đã nộp xong tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

467
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2020/HNGĐ-ST ngày 08/12/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:74/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về