Bản án 74/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 71/2019/TLST-HS ngày 01/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/QĐXX-HS ngày 26/4/2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Hoàng Thị Thanh H (G), sinh năm 1971; nơi cư trú: Tổ 02, xã X, thành phố B, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1940 (bà N được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì); đã ly hôn, có 03 con; có 02 tiền án: Bản án số 65/STHS ngày 12/6/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Chứa mại dâm, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/3/2008 và Bản án số 25/2011/HSST ngày 06/6/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 10 năm tù về tội Môi giới mại dâm, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/9/2017; tiền sự: Không; nhân thân: Năm 1998 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 03 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 năm kể từ ngày 10/7/1998 về tội Chứa mại dâm (đã xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 16/12/2018, tạm giam từ 19/12/2018, trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Bùi Ngọc M, sinh năm 1984 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Số nhà 08, Tổ 04, phường L, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

* Người chứng kiến:

- Bà Bùi Thị H, sinh năm 1955 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Số nhà 85, Tổ 03, phường X, thành phố B, tỉnh Thái Bình;

- Anh Nguyễn Tiến V, sinh năm 1973 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Số nhà 05/06 Ngõ 159, đường T, Tổ 06, phường K, thành phố B, tỉnh Thái Bình;

- Chị Vũ Thị T, sinh năm 1972 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Thôn N, xã L, huyện X, tỉnh Thái Bình.

- Ông Trịnh Đình Đ, sinh năm 1958

Nơi cư trú: Số nhà 117, Tổ 02, xã X, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ ngày 15/12/2018, Hoàng Thị Thanh H đến Công viên Đ thuộc tổ 33, phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình, mục đích mua ma túy để bán kiếm lời. Tại đây H gặp và mua của một người phụ nữ khoảng 55 tuổi, không biết tên, địa chỉ số tiền 2.200.000 đồng được 15 gói ma túy loại Hêrôin (05 gói bên ngoài bằng nilon màu đen, 10 gói bên ngoài bằng nilon màu hồng) rồi mang về nhà cất giấu ở sau bảng điện trên tường trong phòng ngủ chờ có ai hỏi mua thì bán.

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 16/12/2018, H lấy 01 gói ma túy bên ngoài gói bằng nilon màu hồng cho vào túi áo khoác bên phải rồi đi bộ đến ngã tư đường B - B, thuộc tổ 02, xã X, thành phố B để bán. Khoảng 05 phút sau có Bùi Ngọc M đến hỏi mua của H số tiền 200.000 đồng ma túy, H đưa cho M 01 gói ma túy bên ngoài gói bằng nilon màu hồng và nhận từ M 200.000 đồng đang cầm ở lòng bàn tay phải. M cho gói ma túy vào trong túi quần bên phải thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình phát hiện bắt giữ. Trước sự chứng kiến của người chứng kiến, M đã tự giác lấy từ túi quần bên phải ra 01 gói bên ngoài được gói bằng nilon màu hồng giao nộp cho tổ công tác, tổ công tác mở gói nilon ra kiểm tra bên trong gói bằng giấy tráng kim loại màu trắng, trong cùng chứa chất bột màu trắng dạng cục. Bùi Ngọc M khai đó là Hêrôin, M vừa mua của Hoàng Thị Thanh H với số tiền 200.000 đồng để sử dụng cho bản thân, tổ công tác đã niêm phong trong phong bì ký hiệu M1. Hoàng Thị Thanh H tự giác đưa từ lòng bàn tay phải của mình giao nộp cho tổ công tác số tiền 200.000 đồng (gồm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng) và khai nhận đó là tiền vừa bán ma túy cho Bùi Ngọc M mà có, tổ công tác đã yêu cầu Hoàng Thị Thanh H, Bùi Ngọc M và mời người chứng kiến về trụ sở Công an xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình để làm việc. Tại trụ sở Công an xã Phú Xuân, tiếp tục kiểm tra người Bùi Ngọc M nhưng cơ quan điều tra không phát hiện và thu giữ gì. Kiểm tra người Hoàng Thị Thanh H thu tại túi quần bên trái số tiền 200.000 đồng và 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản quản lý niêm phong đồ vật để điều tra, xử lý.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Thị Thanh H tại tổ 02, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình (có sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương và chị Vũ Thị T là người thuê phòng trọ ở cùng Hoàng Thị Thanh H), Hoàng Thị Thanh H đã tự giác lấy từ phía sau bảng điện trên tường trong phòng ngủ của mình giao nộp 14 gói, trong đó có 05 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu đen, 09 gói bên ngoài được gói bằng nilon màu hồng, kiểm tra bên trong 14 gói đều được gói bằng giấy tráng kim loại màu trắng, trong cùng đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, Hoàng Thị Thanh H khai đó là ma túy, loại hêrôin của Hoàng Thị Thanh H cất giấu để bán kiếm lời, Cơ quan điều tra đã niêm phong trong phong bì ký hiệu M2. Thu tại đầu giường ngủ của Hoàng Thị Thanh H 01 ví giả da màu đỏ bên trong có 6.700.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 429/KLGĐ-PC09 ngày 16/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu M1 gửi giám định là ma túy, loại hêrôin có khối lượng 0,0421 gam (Không phẩy không nghìn bốn trăm hai mươi mốt gam); Mẫu M2 gửi giám định là ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 1,8085 gam (Một phẩy tám nghìn không trăm tám mươi lăm gam).

Tại cơ quan điều tra, người chứng kiến Bà Bùi Thị H và anh Nguyễn Tiến V trình bày như sau: Tại khu vực đường Quách Đình Bảo, Tổ 02, xã X, thành phố B, tỉnh Thái Bình bà Hòa và anh Vinh chứng kiến công an thành phố Thái Bình kiểm tra hành chính đối với bị cáo Hoàng Thị Thanh H và Bùi Ngọc M. Bùi Ngọc M tự giác lấy ra từ túi quần bên phải của M ra giao nộp cho các đồng chí công an một gói bên ngoài được gói bằng nilon màu hồng, mở kiểm tra bên trong được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, trong cùng có chứa chất bột màu trắng dạng cục. Bùi Ngọc M khai nhận đó là heroin vừa mua của Hoàng Thị Thanh H với giá 200.000 đồng mục đích để sử dụng cho bản thân. Công an đã niêm phong trong phong bì kí hiệu M1 có chữ ký của Hoàng Thị Thanh H, Bùi Ngọc M, những người chứng kiến và công an. Hoàng Thị Thanh H tự giác đưa từ lòng bàn tay phải của mình một tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng giao nộp cho các đồng chí công an, Hoàng Thị Thanh H khai nhận đó là tiền bán 01 gói ma túy cho Bùi Ngọc M mà có. Sau đó, các đồng chí công an Hoàng Thị Thanh H, Bùi Ngọc M và những người chứng kiến về trụ sở công an xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình làm việc. Tại trụ sở công an, các đồng chí công an kiểm tra trên người và thu giữ tại túi quần bên trái của Hoàng Thị Thanh H 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen và 200.000 đồng, kiểm tra người Bùi Ngọc M nhưng không phát hiện thu giữ gì. Các đồng chí công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng để điều tra, xử lý.

Tại cơ quan điều tra chị Vũ Thị T và anh Trịnh Đình Đ trình bày: Tại chỗ ở của Hoàng Thị Thanh H (do Hoàng Thị Thanh H và chị Vũ Thị T thuê chung) tại tổ 2, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình đã chứng kiến sự việc như sau: Hoàng Thị Thanh H tự giác lấy từ khe phía sau bảng điện trong phòng trọ ra 01 túi nilon trong suốt bên trong có chứa 14 gói nhỏ, trong đó có 5 gói bên ngoài đều được gói bằng nilon màu đen, bên trong đều được gói bằng giấy tráng kim màu vàng và 9 gói bên ngoài đều được gói bằng nilon màu hồng, bên trong đều được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong cùng của 14 gói này đều chứa chất bột màu trắng dạng cục. Hoàng Thị Thanh H khai nhận đó là Heroin do H cất giấu để bán kiếm lời. Thu tại đầu giường ngủ của H 01 ví giả da màu đỏ bên trong có 6.700.000 đồng. Ngoài ra không quản lý thu giữ gì thêm. Chị Vũ Thị T khai: Chị không biết gì về số ma túy do Hoàng Thị Thanh H cất giấu tại phòng trọ như trên. Chị không biết Hoàng Thị Thanh H mua bán ma túy và cũng không biết Hoàng Thị Thanh H có sử dụng ma túy hay không. Chưa lần nào chị nhìn thấy chị Hoàng Thị Thanh H mua bán ma túy với ai hoặc sử dụng ma túy. Chị Vũ Thị T không sử dụng bất kỳ loại ma túy nào.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Hoàng Thị Thanh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số: 68/CT-VKSTP ngày 01/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Hoàng Thị Thanh H về “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điêu 251 Bộ luật hình sự

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội: Khoảng 09 giờ 35 phút ngày 16/12/2018, tại ngã tư đường B - B, tổ 02, xã X, thành phố B, Hoàng Thị Thanh H có hành vi bán trái phép cho Bùi Ngọc M 0,0421 gam ma túy, loại hêrôin lấy 200.000 đồng. Ngoài ra Hoàng Thị Thanh H còn cất giấu tại chỗ ở của mình 1,8085 gam ma túy, loại Hêrôin để bán kiếm lời. Kiểm sát viên phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ xác định có tội, không có chứng cứ xác định vô tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trên cơ sở đó giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị Thanh H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

- Về hình phạt: Áp dụng điểm q khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Thị Thanh H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 16/12/2018. Thu nhập từ bán trái phép chát ma túy rất lớn nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 07 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị xử lý vật chứng bằng hình thức: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo hoàn lại sau giám định. Đối với số tiền 200.000 đồng do bị cáo bán ma túy mà có, đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động Nokia và tiền 6.900.000 đồng quản lý của bị cáo. Xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo Hoàng Thị Thanh H xác định cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng tội, đúng pháp luật vì vậy bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh và mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa. Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Các tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên và Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và đó là các tài liệu, chứng cứ hợp pháp chứng M cho hành vi phạm tội của bị cáo. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và cơ quan điều tra thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhân toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với Cáo trạng đã truy tố, đồng thời còn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố Thái Bình lập hồi 09 giờ 45 phút ngày 16/12/2018 tại trụ sở Công an xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu; Biên bản khám xét do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình lập hồi 12 giờ 40 phút ngày 16/12/2018, Bản kết luận giám định số 429/KLGĐ-PC09 ngày 16/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, lời khai của người chứng kiến là Bùi Thị H, anh Nguyễn Tiến V, chị Vũ Thị T, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Bùi Ngọc M; cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 09 giờ 35 phút ngày 16/12/2018, tại ngã tư đường Lý Bôn - Quách Đình Bảo, tổ 02, xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình, Hoàng Thị Thanh H có hành vi bán trái phép cho Bùi Ngọc M 0,0421 gam ma túy, loại hêrôin lấy 200.000 đồng. Ngoài ra Hoàng Thị Thanh H còn cất giấu tại chỗ ở của mình 1,8085 gam ma túy, loại hêrôin để bán kiếm lời. Bị cáo là người trưởng thành, có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, bị cáo phải nhận thức rõ các tác hại do ma túy gây ra cũng như phải hiểu được quy định của pháp luật về việc nghiêm cấm đối với mọi hành vi liên quan đến ma túy, song với lợi nhuận do thu lời bất chính từ ma túy rất lớn và để đạt được mục đích kiếm tiền nhanh chóng bị cáo đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, bị cáo đã bán ma túy loại Hêrôin có khối lượng 0,0421 gam cho Bùi Ngọc M, sinh năm 1984, nơi cư trú: Số nhà 08, Tổ 04, phường L, thành phố B, tỉnh Thái Bình được 200.000 đồng và tàng trữ 1,8085 gam ma túy loại Hêrôin tại chỗ ở của bị cáo nhằm mục đích để bán trái phép kiếm lời. Tổng khối lượng ma túy bị cáo nhằm bán kiếm lời tương đương với khối lượng ma túy cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Bị cáo có 02 tiền án: tại bản án số 65/STHS ngày 12/6/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Chứa mại dâm, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/3/2008, chưa xóa án tích và Bản án số 25/2011/HSST ngày 06/6/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 10 năm tù về tội Môi giới mại dâm, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/9/2017 cũng chưa được xóa án tích. Do đó hành vi phạm tội ngày 16/12/2018 của bị cáo xác định là tái phạm nguy hiểm phù hợp với khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Điều 251 - Tội mua bán trái phép chất ma túy:“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:a) ...; q) Tái phạm nguy hiểm”. Như vậy, hành vi của bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Là nguy hiểm cho xã hội, vì hành vi đó đã cố ý xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy, đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe của con người cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Xét nguyên nhân và điều kiện để thực hiện hành vi phạm tội là nhằm kiếm tiền một cách nhanh nhất bằng mọi giá nên bị cáo không tuân thủ pháp luật, cố ý mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy cần xét xử bị cáo nghiêm M bằng pháp luật.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào nhưng có nhân thân xấu, vào năm 1998 bị Tòa án áp dụng hình phạt tù nên cần xem xét khi quyết định hình phạt. Song cũng xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, mẹ đẻ của bị cáo là bà Nguyễn Thị N được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi lượng hình.

[5]. Về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ quyết định mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là phạt tù có thời hạn - buộc bị cáo cách ly ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo hiệu quả của việc cải tạo, giáo dục cũng như phòng ngừa tội phạm chung. Bị cáo mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích thu lời bất hợp pháp nên xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Hoàng Thị Thanh H khai mua ma túy của 01 người phụ nữ khoảng 55 tuổi không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xử lý là phù hợp.

[7]. Đối với anh Bùi Ngọc M là người mua của bị cáo khối lượng 0,0421 gam ma túy, loại hêrôin để sử dụng, tuy nhiên do khối lượng ma túy không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự, bản thân anh Bùi Ngọc M chưa có tiền án, tiền sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính,vì vậy cơ quan điều tra đã xử phạt vi phạm hành chính đối với anh Bùi Ngọc M là phù hợp. Đối với chị Vũ Thị T không biết bị cáo cất giấu chất ma túy trong phòng do chị và bị cáo thuê trọ chung, chị Thơm không biết bị cáo mua bán trái phép chất ma túy nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý hình sự đối với chị Vũ Thị T.

[8]. Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy loại Hêrôin do Bùi Ngọc M tàng trữ và số ma túy loại Hêrôin do bị cáo tàng trữ mục đích để bán trái phép kiếm lời được hoàn lại sau giám định, là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9]. Về tài sản khác: Đối với số tiền 200.000 đồng do bị cáo bán ma túy mà có, đây là số tiền do bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động Nokia thu và số tiền 6.900.000 đồng quản lý của bị cáo. Qua điều tra không có căn cứ xác định tài sản này liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo đề nghị xin lại tài sản do đó cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[10]. Về án phí: Bị cáo Hoàng Thị Thanh H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11]. Bị cáo Hoàng Thị Thanh H có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm q khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Thị Thanh H (G) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Thanh H (G) 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 16/12/2018. Phạt bổ sung bị cáo 7.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy loại Hêrôin còn lại sau giám định thu của bị cáo Hoàng Thị Thanh H (G) và bao gói. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng do bị cáo bán ma túy mà có.

3. Trả lại cho bị cáo Hoàng Thị Thanh H (G) 01 điện thoại di động Nokia và số tiền 6.900.000 đồng nhưng giao cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Tang vật có đặc điểm ghi tại: Biên lai thu tiền số 0001430 và Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản cùng ngày 02/4/2019 giữa Công an thành phố Thái Bình và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Bình.

4. Án phí: Buộc bị cáo Hoàng Thị Thanh H (G) phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm .

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Án tuyên công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 07/5/2019. Vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về