Bản án 74/2019/HSST ngày 04/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 74/2019/HSST NGÀY 04/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 73/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Minh Đ, sinh năm 1990 tại Đồng Nai; Hộ khẩu thường trú: Tổ A, Ấp B, xã TA, huyện LT, tỉnh Đồng Nai; Nơi ở hiện nay: Tổ C, Ấp D, xã AP, huyện LT, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn C và bà Nguyễn Thị Bạch H; Bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Dương Ngọc T, sinh năm 1994; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam ngày 10/4/2019. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 10 giờ ngày 10/4/2019, công an huyện Long Thành phối hợp công an xã AP tiến hành kiểm tra nhà bà Nguyễn Thị Bạch H tại Tổ C, Ấp D, xã AP, huyện LT, tỉnh Đồng Nai phát hiện trong tủ quần áo tại phòng ngủ của Lê Minh Đ (con bà H) có 05 gói ny lon được hàn kín hai đầu, bên trong chứa các tinh thể màu trắng không rõ hình, kích thước mỗi gói 1,5cm x 2,5cm. Tại thời điểm bắt quả tang có Dương Ngọc T cùng ở chung với Đ chứng kiến sự việc.

Quá trình điều tra xác định được như sau:

Lê Minh Đ là người nghiện ma túy từ đầu năm 2018, nguồn ma túy do Đ mua của người phụ nữ tên P (không rõ nhân thân, lai lịch) ở khu vực Long Thành. Lúc 22 giờ ngày 09/4/2019, Đ gọi điện thoại liên hệ với P để hỏi mua ma túy, P đồng ý. Một lúc sau P mang 06 gói ny lon bên trong có chứa ma túy tổng hợp đến nhà bán cho Đ với giá 1.200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Đ lấy ra một gói ma túy để sử dụng, còn lại 05 gói Đ cất giấu vào tủ quần áo trong phòng ngủ của Đ. Đến 10 giờ ngày 10/4/2019, khi lực lượng công an kiểm tra phát hiện quả tang hành vi tàng trữ ma túy của Đ như nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 257/PC09-GĐMT ngày 16/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,8695 gam, loại: Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Vật chứng vụ án: 01 gói niêm phong số 257/PC09-GĐMT chứa mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,7590 gam và 01 nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy.

Tại bản cáo trạng số 80/CT-VKSLT ngày 28/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Lê Minh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lê Minh Đ từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy còn lại sau giám định và 01 nỏ thủy tinh.

Đối với Dương Ngọc T có hành vi sử dụng chung ma túy với Đ, xác định không liên quan đến việc tàng trữ ma túy và đã bị Ủy ban nhân dân xã AP áp dụng biện pháp đưa vào Cở sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai.

Đối với người phụ nữ tên P có hành vi bán ma túy cho bị cáo, hiện không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra công an huyện Long Thành tiếp tục điều tra xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Minh Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như bản cáo trạng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố là đúng.

Lời nói sau cùng của bị cáo Lê Minh Đ tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận toàn hành vi phạm tội của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Long Thành, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Minh Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định: Lê Minh Đ là đối tượng nghiện ma túy từ đầu năm 2018. Vào lúc 10 giờ 00 phút ngày 10/4/2019, tại nhà bà Đ (mẹ ruột của Đ) địa chỉ Tổ 7, Ấp 5, xã AP, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Lê Minh Đ đã có hành vi tàng trữ 05 gói nylon kích thước khoảng 1,5cm x 2,5cm được hàn kín, bên trong chứa ma túy tổng hợp do Đ mua về cất giữ để sử dụng dần, có trọng lượng 0,8695 gam là ma túy, loại Methamphetamine thì bị phát hiện bắt quả tang.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố để kết luận bị cáo Lê Minh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất ma túy; làm lan tràn tệ nạn xã hội và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội bất chấp hậu quả xảy ra. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên Tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 .

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xétthấy cần tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số 257/PC09-GĐMT ngày 16/4/2019 chứa mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,7590 gam của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đồng Nai và 01 nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy.

Đối với Dương Ngọc T có hành vi sử dụng chung ma túy với Đ, không liên quan đến việc tàng trữ ma túy và đã bị Ủy ban nhân dân xã AP áp dụng biện pháp đưa vào Cở sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai là đúng quy định pháp luật.

Đối với người phụ nữ tên P có hành vi bán ma túy cho bị cáo, hiện không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra công an huyện Long Thành tiếp tục điều tra xử lý sau là đúng quy định pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo Đ phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Minh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Lê Minh Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2019.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 nỏ thủy tinh và 01 gói niêm phong chứa mẫu vật (ma túy) sau giám định số 257/PC09-GĐMT ngày 16/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Đồng Nai.

(Các vật chứng nêu trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành đang giữ theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/5/2019).

Về án phí: Buộc bị cáo Lê Minh Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HSST ngày 04/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về