Bản án 74/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 74/2019/DS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 198/2019/TLST-DS ngày 23 tháng 8 năm 2019 về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 246/2019/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng C

Địa chỉ: Số X, Phố L Đ, phường H, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật ông Dương Quyết Th – Tổng giám đốc Đại diện theo ủy quyền ông Phạm Công K – Phó giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Phú Tân (có mặt).

Theo Quyết định ủy quyền số 4716/QĐ-NHCS ngày 25 tháng 11 năm 2016 của Tổng giám đốc Ngân hàng C và giấy ủy quyền số 165/UQ-PGD ngày 20 tháng 8 năm 2019 của Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Phú Tân.

- Bị đơn:

1. Bà Phạm Thị T (vắng mặt).

2. Ông Hồ Văn Kh (vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp Đ, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 20 tháng 8 năm 2019 và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng C ông Phạm Công K trình bày: Vào ngày 8 tháng 9 năm 2000, bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh có vay vốn tại Ngân hàng phục vụ người nghèo chi nhánh huyện Cái Nước với số tiền 4.000.000 đồng, nguồn vốn cho vay hộ nghèo, lãi suất thỏa thuận 0,7%/tháng, thời hạn trả cuối cùng là ngày 08 tháng 9 năm 2001. Đến ngày 10 tháng 12 năm 2004 Ngân hàng phục vụ người nghèo chi nhánh huyện Cái Nước bàn giao hồ sơ vay vốn và dư nợ của bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh cho Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Phú Tân để tiếp tục quản lý và thu hồi nợ. Trong thời gian qua các ngành đoàn thể nhận dịch vụ ủy thác của xã Phú Tân cùng tổ tiết kiệm và vay vốn đã tích cực vận động bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi theo đúng định kỳ nhưng bà T và ông Kh không thực hiện. Ông K yêu cầu bà T và ông Kh trả tiền gốc đến ngày 29 tháng 11 năm 2019 với số tiền là 11.062.463 đồng, trong đó tiền gốc 4.000.000 đồng, tiền lãi 7.062.463 đồng và lãi phát sinh cho đến khi trả hết nợ gốc.

- Bị đơn bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh đã được Tòa án tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn bản tố tụng nhưng bà T, ông Kh không tham gia hòa giải, xét xử và không cung cấp lời khai cho Tòa án.

- Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Ngân hàng C. Buộc bà T, ông Kh trả tiền gốc và lãi cho Ngân hàng C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngân hàng C khởi kiện yêu cầu bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh trả tiền vay và lãi suất. Do đó, đây là tranh chấp dân sự về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” nên theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh.

[3] Đối với yêu cầu bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh trả tiền nợ gốc 4.000.000đ và lãi: Căn cứ đơn xin vay vốn kiêm phương án sản xuất kinh doanh của bà Phạm Thị T thể hiện bà T có vay của Ngân hàng C số tiền vốn là 4.000.000 đồng, ông Kh là người thừa kế. Tòa án đã tống đạt Thông báo thu lý vụ án cho bà T và ông Kh nhưng bà T và ông Kh không có ý kiến đối với yêu cầu của Ngân hàng . Do bà T và ông Kh đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký kết. Tại khoản 1 Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 1995 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay: “bên vay tài sản là tiền, thì trả đủ tiền khi đến hạn …”. Áp dụng điều luật đã viện dẫn thì bà T, ông Kh phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng C. Do đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C, buộc bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng C số tiền gốc và lãi suất tính đến ngày 29 tháng 11 năm 2019 với số tiền tổng cộng là 11.062.463 đồng; trong đó tiền gốc 4.000.000 đồng, tiền lãi 7.062.463 đồng.

[4] Đối với yêu cầu bà T và ông Kh trả lãi phát sinh sau ngày 29 tháng 11 năm 2019 đến khi trả hết nợ gốc: Yêu cầu này của Ngân hàng là phù hợp với quy định của pháp luật và hợp đồng cho vay giữa các bên đã ký kết. Căn cứ vào án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng thẩm phán TANDTC thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì bà T và ông Kh có trách nhiệm trả lãi phát sinh theo hợp đồng giữa các bên đã ký kết kể từ ngày 30 tháng 11 năm 2019 cho đến khi trả hết nợ gốc.

[5] Từ phân tích nêu trên nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Ngân hành C không phải nộp án phí; Do bà T, ông Kh phải có nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng C nên bà T và ông Kh phải chịu án phí dân sự có giá ngạch là 11.062.463 x 5% = 553.123 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 271 và Điêu 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 467, Điều 471, Điều 473 và Điều 475 của Bộ luật dân sự năm 1995 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của Ngân hành C. Buộc bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng C số tiền gốc và lãi suất tính đến ngày 29 tháng 11 năm 201 với số tiền tổng cộng là 11.062.463 đồng (mươi một triệu không trăm sáu mươi hai ngàn bốn trăm sáu mươi ba đồng); trong đó tiền gốc 4.000.000 đồng, tiền lãi 7.062.463 đồng.

Kể từ ngày 30 tháng 11 năm 2019 khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi và tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng cho vay các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng vay theo quyết định của Tòa án cũng được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí:

Buộc bà Phạm Thị T và ông Hồ Văn Kh liên đới chịu án phí dân sự có giá ngạch với số tiền 553.123 đồng (năm trăm năm mươi ba ngàn một trăm hai mươi ba đồng).

Án xử sơ thẩm, Ngân hàng C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bà T và ông Kh có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:74/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về