Bản án 74/2018/HS-ST ngày 12/12/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X M, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 74/2018/HS-ST NGÀY 12/12/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 74/2018/HSST ngày 20 tháng 11 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Phan Thị Tố N, sinh năm: 1986 tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Nơi cư trú: Ấp 3, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Thanh P, sinh năm: 1952 và bà Lê Thị H, sinh năm: 1962; bị cáo có chồng tên Phan Công Đ, sinh năm: 1972 (Đã ly hôn) có 01 con sinh năm 2010 và đang mang thai.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Không.

Biện pháp ngăn chặn: Ngày 12/8/2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện XM ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 28/QĐ và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh thời hạn từ ngày 12/8/2018 đến ngày 12/4/2019. Bị cáo được tại ngoại.

“Bị cáo có mặt”.

Bị hại: Bà Võ Thị Thu T, sinh năm: 1989; nơi cư trú: Ấp 3, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Có mặt”

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Lê Thị H, sinh năm: 1962; nơi cư trú: Ấp 3, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Có mặt”

Người làm chứng:

+ Ông Phạm Thái S, sinh năm: 1985; nơi cư trú: Ấp 4B, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Có mặt”

+ Ông Lưu Văn N, sinh năm: 1985; nơi cư trú: Tổ 4, ấp 4A, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Có mặt”

+ Bà Phạm Thị H, sinh năm: 1972; nơi cư trú: Ấp 3, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Vắng mặt”

+ Ông Bùi Sỹ L, sinh năm: 1972; nơi cư trú: Ấp 3, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Có mặt”

+ Bà Nguyễn Hoàng Yến P, sinh năm: 1984; nơi cư trú: Ấp 3, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 30 ngày 03/6/2018 bà Phạm Thị Huệ đến nhà bà Lê Thị H lấy tiền hàng. Bà H2 và bà H1 đang ngồi nói chuyện trên ghế đá trước sân nhà bà H1, lúc này bà Võ Thị Thu T là hàng xóm của bà H1 nghi ngờ bà H1 nói xấu mình theo trai bị chồng đánh nên tức giận đã cầm 01 cây gỗ dẹt, dài khoảng 01 mét chạy qua sân nhà bà H1 đánh bà H1 01 cái vào tay. Sau đó giữa T và bà H1 có xảy ra xô xát với nhau nhưng không ai có thương tích gì. Đến khoảng 15 giờ chiều ngày 04/6/2018 anh Phạm Thái S là chồng của T nghe tin giữa T và bà H1 xảy ra mâu thuẫn với nhau nên đến quán cà phê của bị cáo Phan Thị Tố N là con của bà H1, Sơn gặp bị cáo nói chuyện xin lỗi, giải hòa với bị cáo về việc T đánh bà H1 và được bị cáo chấp nhận lời xin lỗi, bỏ qua vụ việc đồng thời bị cáo cũng yêu cầu Sơn về nói T qua xin lỗi bà H1 là xong. Sau đó Sơn về nhà bà H1 để xin lỗi thì T đang ở bên nhà T nghe được câu chuyện giữa Sơn và bà H1 thì đi qua nhà bà H1. Bà H1 thấy T qua, do còn bực tức việc bị T đánh nên nói với T “Có chồng mày đây tao đánh mày được không”, lúc này giữa T và bà H1 có lời qua tiếng lại, thách thức nhau T nói với bà H1 “Con Nga về đây tao vặn họng”, bà H1 nghe vậy cầm điện thoại gọi cho bị cáo nói “Mày về đi, con T đòi vặn họng mày” T nghe vậy thì đi về nhà. Bị cáo nghe điện thoại của bà H1 xong thi gọi cho người yêu tên Lưu Văn N đi về cùng. Khi đến nhà T thì bị cáo và T tiếp tục có lời qua tiếng lại thách thức nhau.

Sau đó T vào nhà lấy một khúc gỗ vuông kích thước 3,7cm x 2,7cm dài 90 cm đứng trong nhà thách thức bị cáo. Bị cáo tiếp tục bước vào bên trong nhà T và thách thức T. Anh Sơn thấy vậy vào can ngăn, giật lấy khúc gỗ trên tay T ném ra ngoài. Lúc này, bị cáo sử dụng một con dao dài khoảng 40cm cán bằng gỗ, lưỡi kim loại, rồi dùng tay phải cầm dao chém vào tay trái T theo hướng từ trên xuống làm đứt gân duỗi ngón II, III, IV, V. Anh Lưu Văn N và bà Lê Thị H vào can ngăn bị cáo và đưa bị cáo ra ngoài, thấy bị cáo ra khỏi cửa T lấy 01 con dao dài 29,5cm ném về phía trước nhưng không trúng ai.

Tại giấy chứng nhận thương tích số 221/CN ngày 11/6/2018 của bệnh viện Bà Rịa ghi nhận tình trạng thương tích của Võ Thị Thu T lúc vào viện ngày 04/6/2018 như sau:

+ Chuẩn đoán: Vết thương cẳng tay trái đứt gân duỗi ngón II, III, IV, V;

+ Tình trạng thương tích lúc vào viện: vết thương 1/3 giữa sau trong cẳng tay dài 6 cm, không duỗi được ngón II, III, IV, V.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 203/TgT ngày 01/8/2018 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây ra đối với Võ Thị Thu T là 14%.

Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại Võ Thị Thu T yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 70.000.000đ, bị cáo đồng ý và đề nghị bồi thường trước 40.000.000đ. Tuy nhiên bị hại T không đồng ý và yêu cầu bồi thường số tiền 70.000.000đ một lần.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố.

Bản cáo trạng số 73/CT - VKS - XM ngày 16/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện XM truy tố bị cáo Phan Thị Tố N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ, khoản 2, Điều 134 Bộ luật hình sự 2015.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ, khoản 2, Điều 134 Bộ luật hình sự 2015; điểm b, n, s khoản 1, Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 24 đến 26 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 48 tháng đến 52 tháng.

Ngoài ra còn đề nghị giải quyết phần trách nhiệm dân sự và vật chứng đối với vụ án.

Bị cáo Phan Thị Tố N nói lời sau cùng: Bản thân bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định truy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện XM, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện XM, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đối chiếu với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và những người tham gia tố tụng khác cũng như những tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ là phù hợp. Theo đó xác định được rằng: Do có mâu thuẫn với nhau từ trước nên vào khoảng 15 giờ ngày 04/6/2018 bị cáo đã có hành vi dùng con dao dài khoảng 40cm cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại, rồi dùng tay phải cầm dao chém vào tay trái của T theo hướng từ trên xuống làm đứt gân duỗi ngón II, III, IV, V.

Tại giấy chứng nhận thương tích số 221/CN ngày 11/6/2018 của bệnh viện Bà Rịa ghi nhận tình trạng thương tích của Võ Thị Thu T lúc vào viện ngày 04/6/2018 như sau:

+ Chuẩn đoán: vết thương cẳng tay trái đứt gân duỗi ngón II, III, IV, V;

+ Tình trạng thương tích lúc vào viện: vết thương 1/3 giữa sau trong cẳng tay dài 6 cm, không duỗi được ngón II, III, IV, V.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 203/TgT ngày 01/8/2018 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây ra đối với Võ Thị Thu T là 14%.

Như vậy hành vi của bị cáo nêu trên có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ, khoản 2, Điều 134 Bộ luật hình sự 2015. Từ đó cho thấy bản cáo trạng số 73/CT-VKS -XM ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện XM truy tố bị cáo Phan Thị Tố N về tội danh và điều khoản nêu trên là đứng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, dùng hung khí nguy hiểm, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trong xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Sau khi phạm tội đã tự nguyện khắc phục một phần hậu quả, bị cáo là phụ nữ có thai nên áp dụng điểm điểm b, n, s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ một phần cho bị cáo khi quyết định hình phạt. Căn cứ vào nhân thân của bị cáo và xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội lần đầu, việc phạm tội là bộc phát, nhất thời, có một phần lỗi của bị hại. Bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, bị cáo đang mang thai gần đến ngày sinh nên áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương nơi cư trú cũng đủ để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó, không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, mà cho bị cáo được hưởng án treo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Võ Thị Thu T yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 70.000.000. Bị cáo đồng ý, xét sự thỏa thuận của các bên là phù hợp với quy định của pháp luật nên ghi nhận.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 cây gỗ vuông 04cm, cạnh dài 90 cm kích thước 3,7cm x 2,7cm;

- 01 lưỡi dao kim loại màu xám dài 24,8cm, phần rộng nhất dài 05 cm, cuối lưỡi dao có 02 chốt để cố định lưỡi dao và cán dao khoảng cách 01 cm; 01 cán dao bằng gỗ dài 14cm, phần rộng nhất là 3,5cm độ dày cán dao 1,5cm, phía dưới cán dao bị vỡ.

- 01 dao kim loại màu trắng sáng dài 29,5cm, phần lưỡi dài 18cm, phần cán dài 11,5cm; phần rộng nhất lưỡi dao dài 09cm.

Xét các vật dụng này là tang vật của vụ án, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

Đối với bị hại Võ Thị Thu T: Bị cáo cho rằng trong lúc hai bên thách thức bên trong nhà T, T có cầm 01 con dao và bị cáo giật lấy con dao trên tay T sau đó dùng dao này chém vào tay T. Tuy nhiên, qua kết quả điều tra (thực nghiệm hiện trường, đối chất, lấy lời khai nhân chứng) không có căn cứ để xác định T có cầm dao và tại phiên tòa bị hại T không thừa nhận. Do đó không có cơ sở để kết luận T có cầm dao nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với bà Lê Thị H: Bị hại T cho rằng trong khi bị cáo cầm dao chém T 01 nhát vào tay, đồng thời bà H1 có cầm cây lau nhà đánh T 01 cái vào người nhưng không gây thương tích. Qua kết quả điều tra (thực nghiệm hiện trường, đối chất, lấy lời khai nhân chứng) không có căn cứ để xác định bà H1 đánh T và tại phiên tòa bà H1 không thừa nhận sự việc trên, mà cho rằng bà chỉ là người đứng ra căn ngăn bị cáo và T. Do đó không có cơ sở để kết luận bà H1 tham gia đánh T cùng với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí hình sụ sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Thị Tố N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ, khoản 2, Điều 134, điểm b, n, s, khoản 1, Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo: Phan Thị Tố N 24 (Hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 48 (Bốn mươi tám) tháng, tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Phan Thị Tố N cho UBND xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

(Đã giải thích chế định án treo).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 cây gỗ vuông 04cm, cạnh dài 90 cm kích thước 3,7cm x 2,7cm;

- 01 lưỡi dao kim loại màu xám dài 24,8cm, phần rộng nhất dài 05 cm, cuối lưỡi dao có 02 chốt để cố định lưỡi dao và cán dao khoảng cách 01 cm; 01 cán dao bằng gỗ dài 14cm, phần rộng nhất là 3,5cm độ dày cán dao 1,5cm, phía dưới cán dao bị vỡ.

- 01 dao kim loại màu trắng sáng dài 29,5cm, phần lưỡi dài 18cm, phần cán dài 11,5cm; phần rộng nhất lưỡi dao dài 09cm.

(Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/11/2018 giữa Công an huyện XM và Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM).

3. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng các Điều 584, 585, 590 của Bộ luật dân sự năm 2015, ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại như sau:

Bị cáo Phan Thị Tố N có trách nhiệm bồi thường cho bà Võ Thị Thu T số tiền 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) bị cáo đã đóng tạm ứng khắc phục hậu quả theo biên lai thu số 0001106 ngày 20/11/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM. Bị cáo có trách nhiệm bồi thường tiếp cho bà Võ Thị Thu T số tiền 64.000.000đ (Sáu mươi bốn triệu đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (Đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Phan Thị Tố N phải nộp số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bị cáo Phan Thị Tố N phải nộp số tiền 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2018/HS-ST ngày 12/12/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:74/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về