Bản án 74/2017/HS-ST ngày 19/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 74/2017/HS-ST NGÀY 19/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2017/HS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 74/2017/HSST- QĐ ngày 06 tháng 7 năm 2017, đối với bị cáo:

Phùng Văn C, sinh năm 1988; nơi cư trú: Phố A, phường B, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Không; bố đẻ Phùng Văn C1, mẹ đẻ Phùng Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2017 cho đến nay (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1985; nơi cư trú: Làng A, xã B, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo Phùng Văn C bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 22/3/2017, Phùng Văn C đang ở nhà tại phố A, phường B, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc thì nhận được điện thoại của Nguyễn Ngọc H hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 700.000đ. C đồng ý bán ma túy cho H và hẹn gặp nhau ở khu vực cổng Bệnh viện A, thuộc phường Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc để trao đổi mua bán. Sau đó C mượn xe máy biển kiểm soát: 88H1- 01867 của anh Phùng Văn D ở cùng khu phố với C đi ra điểm hẹn. Gặp nhau, H đưa trước cho C 550.000đ, C cầm tiền rồi lấy xe máy đi. C khai đã đi đến cổng Bệnh viện Y và mua 01 gói ma túy đá của một nam thanh niên không quen biết với giá 450.000đ, còn 100.000đ C cất giữ. Sau đó C đem gói ma túy đá về điểm hẹn đưa cho H, H cầm gói ma túy và trả nốt cho C số tiền 150.000đ thì bị tổ công tác phòng chống tội phạm về ma túy Công an thành phố Vĩnh Yên phát hiện và bắt quả tang.

Tang vật thu giữ gồm:

- Thu giữ trong tay phải của Nguyễn Ngọc H 01 gói nilon nhỏ bên trong chứa tinh thể dạng đá màu trắng, H khai đó là ma túy đá vừa mua được của C với giá 700.000đ, vật chứng được niêm phong có ký hiệu A1 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng;

- Tạm giữ của Phùng Văn C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell đã qua sử dụng; 01 xe máy biển kiểm soát 88H1-01867 và số tiền 250.000đ, C khai đó là tiền lời do bán ma túy cho H mà có.

Tại Kết luận giám định số: 242 ngày 26/3/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Tinh thể dạng đá của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định có trọng lượng 0,2016 gam có Methamphetamine, trọng lượng Methamphetamine trong 0,2016 gam mẫu là 0,1308 gam. Hoàn lại mẫu còn lại sau giám định 0,1084 gam mẫu và toàn bộ bao gói”.

Tại Cáo trạng số: 73/KSĐT-MT ngày 26/6/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố bị cáo Phùng Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phùng Văn C khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Ngọc H vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra đã khai nhận: Khoảng 17 giờ ngày 22/3/2017, tại cổng Bệnh viện A, H có mua của C 01 gói ma túy đá với giá 700.000đ thì bị Công an bắt quả tang và niêm phong tang vật (từ bút lục 53 đến 58).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Văn C từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,1084 gam và bao gói còn lại sau giám định; tịch thu sung quỹ Nhà nước 02 chiếc điện thoại di động đã thu giữ của Nguyễn Ngọc H và Phùng Văn C; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 250.000đ đã thu giữ của bị cáo Phùng Văn C.

Bị cáo Phùng Văn C không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Phùng Văn C tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 17 giờ ngày 22/3/2017, tại khu vực cổng Bệnh viện A, thuộc phường Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, bị cáo Phùng Văn C đã có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy đá với giá 700.000đ cho đối tượng nghiện là Nguyễn Ngọc H thì bị tổ công tác phòng chống tội phạm về ma túy Công an thành phố Vĩnh Yên phát hiện và bắt quả tang. Tang vật thu giữ được giám định là ma túy có trọng lượng 0,2016 gam có Methamphetamine, trọng lượng Methamphetamine trong 0,2016 gam mẫu là 0,1308 gam.

Hành vi nêu trên của bị cáo Phùng Văn C đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ 02 đến 07 năm tù.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; gây ra một lớp người nghiện trong xã hội làm tác hại cho chính bản thân người nghiện và gia đình họ cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự, nhưng hành vi được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ là thu lời bất chính, hiện tại trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Nguyễn Ngọc H là đối tượng nghiện ma túy, mục đích mua túy để sử dụng; hành vi tàng trữ 0,2016 gam có thành phần ma túy Methamphetamine chưa đủ định lượng cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền phạt 1.500.000đ là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Đối với số ma túy và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu huỷ. Đối với số tiền 250.000đ đã thu giữ của bị cáo được xác định là do phạm tội mà có cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với 02 chiếc điện thoại di động đã thu giữ của bị cáo C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan H, đây là phương tiện các đối tượng dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 41 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phùng Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Văn C 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 22/3/2017).

Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự,

- Tịch thu tiêu huỷ 0,1084 gam ma túy và bao gói ma túy còn lại sau giám định;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 02 chiếc điện thoại di động đã thu giữ của bị cáo Phùng Văn C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Ngọc H;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) đã thu giữ của bị cáo Phùng Văn C.

(Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 14/7/2017).

Áp  dụng  Điều  99  của  Bộ  luật  Tố  tụng  hình  sự;  Nghị  quyết  số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Phùng Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án tại địa phương nơi thường trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2017/HS-ST ngày 19/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về