TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 74/2017/DS-ST NGÀY 18/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 18/8/2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 160/2017/TLST-DS ngày 05 tháng 7 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2017/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phan Văn Nh, sinh năm: 1963;
Địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn: Ông Châu Văn V, sinh năm: 1969;
Bà Lê Thị Bé T, sinh năm: 1973;
Cùng địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Tại phiên tòa sơ thẩm, tất cả các đương sự đều có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 04/7/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Phan Văn Nh trình bày:
Từ khoảng năm 2012, ông có bán thức ăn chăn nuôi gia súc cho vợ chồng ông V, bà T theo hình thức gói đầu. Mỗi lần giao thức ăn cho vợ chồng ông V, bà T đều có ghi sổ theo dõi. Hai bên thỏa thuận miệng khi nào ông V, bà T bán heo đợt nào thì trả tiền thức ăn cho ông đợt đó. Ngoài ra ông còn cho ông V, bà T mượn tiền để mua heo con giống.
Ngày 31/3/2017, hai bên tổng kết lại thì ông V, bà T còn nợ của ông số tiền là 184.797.000 đồng. Do số tiền nợ quá lớn nên ông đề nghị ông V, bà T phải mua thức ăn bằng tiền mặt thì ông sẽ đồng ý giảm tiền thức ăn theo giá tiền mặt là 10.000 đồng/bao nhưng ông V, bà T không đồng ý vì cho rằng không có tiền và tự ý đi mua thức ăn của đại lý khác.
Ngày 14/5/2017, ông có đến nhà để thương lượng việc trả nợ, nếu ông V, bà T trả hết nợ cho ông trong vòng 10-20 ngày thì ông sẽ giảm cho ông V, bà T 20.000.000 đồng nhưng ông V, bà T không đồng ý.
Ngày 22/5/2017, ông V, bà T còn nợ ông số tiền là 194.797.000 đồng và có giấy tay xác nhận nợ có chữ ký của ông V, bà T. Sau đó ông V, bà T có trả cho ông số tiền là 10.000.000 đồng, còn nợ lại 184.797.000 đồng, đến nay không trả.
Ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Châu Văn V và bà Lê Thị Bé T có trách nhiệm liên đới trả cho ông số tiền do mua bán thức ăn còn nợ tổng cộng là 184.797.000 đồng, yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật kể từ ngày ông V, bà Bé T ký giấy nhận nợ (ngày 22/5/2017) đến ngày xét xử. Tại phiên tòa ông Nh không yêu cầu tính lãi
Trong bản tự khai ngày 03/4/2017 và các lời khai khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông Châu Văn V và bà Lê Thị Bé T trình bày:
Ông bà thừa nhận vợ chồng ông bà có mua thức ăn của ông Nh như ông Nh đã trình bày. Ông bà thừa nhận hiện tại vợ chồng ông bà còn nợ của ông Nh số tiền là 184.797.000 đồng. Giấy tay xác nhận nợ ngày 22/5/2017 là do ông Nh viết, vợ chồng ông bà ký tên và hứa trả dần hàng tháng. Sau khi viết giấy nhận nợ này vợ chồng ông bà có trả cho ông Nh số tiền 10.000.000 đồng. Ông bà cũng đồng ý trả số tiền 184.797.000 đồng cho ông Nh nhưng vì hoàn cảnh kinh tế hiện tại rất khó khăn nên ông bà xin được trả dần mỗi tháng là 2.000.000 đồng cho đến khi hết nợ, nếu sau này có khả năng thì vợ ông bà sẽ trả nhiều hơn. Ông bà xin không trả lãi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Do có quen biết với nhau nên giữa ông Phan Văn Nh với ông Châu Văn V cùng vợ là bà Lê Thị Bé T có thỏa thuận giao dịch với nhau về việc mua bán thức ăn gia súc, cụ thể như sau:
Vào khoảng năm 2012, ông Nh bán thức ăn cho ông V và bà Bé T, theo hình thức gói đầu. Mỗi lần giao thức ăn cho vợ chồng ông V và bà Bé T thì ông Nh có ghi sổ theo dõi số lượng bao và ngày giao. Hai bên có thỏa thuận miệng là sau mỗi đợt bán gia súc, ông V và bà Bé T trả tiền cho ông Nh và ông Nh sẽ giao hàng tiếp.
Quá trình thực hiện hợp đồng: Hai bên mua bán thức ăn thời gian dài từ thời gian nói trên đến ngày 31/3/2017 hai bên tổng kết nợ, ông V và bà Bé T còn nợ của ông Nh là 184.797.000 đồng. Ngày 22/5/2017, ông V, bà T còn nợ ông Nh số tiền là 194.797.000 đồng và có giấy tay xác nhận nợ có chữ ký của ông V, bà T. Sau đó ông V, bà T có trả cho ông Nh số tiền là 10.000.000 đồng, còn nợ lại số tiền là 184.797.000 đồng đến nay không trả.
Xét thấy đây là hợp đồng mua bán thức ăn, căn cứ vào giấy xác nhận nợ tiền thức ăn của ông V, bà T ký và ông V, bà T cũng thừa nhận còn nợ của ông Nh số tiền là 194.797.000 đồng. Sau đó, ông V bà T có trả cho ông Nh số tiền là 10.000.000 đồng, còn lại 184.797.000 đồng đến nay không trả tiếp số tiền nào.
Ông Nh cho rằng nhiều lần ông Nh đòi nợ nhưng ông V, bà T không thực hiện việc trả nợ như hợp đồng nên ông V, bà T đã vi phạm hợp đồng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nh, cần buộc ông V, bà T phải có trách nhiệm thanh toán số tiền còn nợ do mua thức ăn của ông Nh là 184.797.000 đồng là phù hợp nên chấp nhận.
Tại phiên tòa, ông V, bà T vẫn đồng ý còn nợ số tiền mua thức ăn của ông Nh là 184.797.000 đồng, nhưng ông V và bà T xin trả dần là không phù hợp với quy định của pháp luật. Mặt khác, ông Nh không đồng ý nên không chấp nhận yêu cầu xin trả dần của ông V và bà T.
Về lãi suất: Ông Nh không yêu cầu tính lãi, phía bị đơn là ông V và bà Bé T cũng yêu cầu xin không trả lãi. Hội đồng xét xử xét thấy đây là sự tự nguyện của các bên đương sự không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên ghi nhận và không xem xét tính lãi suất.
Từ những phân tích trên, buộcông Châu Văn V cùng vợ là bà Lê Thị Bé T phaỉ có trách nhiệm liên đới trả cho ông Phan Văn Nh soá tieàn nợ gốc của việc mua bán thức ăn là 184.797.000 đồng.
Về án phí: Buộc ông Châu Văn V và bà Lê Thị Bé T có trách nhiệm liên đới phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định là 9.239.850 đồng.
Do yêu cầu của ông Phan Văn Nh được chấp nhận nên ông Phan Văn Nh không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho ông Nh số tiền tạm ứng án phí ông Nh đã nộp là 4.619.925 đồng theo biên lai thu số 0011765 ngày 04/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 430, 440 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Phan Văn Nh về việc yêu cầu ông Châu Văn V và bà Lê Thị Bé T có trách nhiệm liên đới trả cho ông Phan Văn Nh số tiền nợ mua bán thức ăn tổng cộng là 184.797.000 đồng (Một trăm tám mươi bốn triệu bảy trăm chín mươi bảy nghìn đồng).
2. Buộc ông Châu Văn V và bà Lê Thị Bé T có trách nhiệm liên đới trả cho ông Phan Văn Nh số tiền nợ mua bán thức ăn tổng cộng là 184.797.000 đồng (Một trăm tám mươi bốn triệu bảy trăm chín mươi bảy nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông Phan Văn Nh, nếu ông Châu Văn V và bà Lê Thị Bé T không chịu trả số tiền như án tuyên thì hàng tháng ông Châu Văn V và bà Lê Thị Bé T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn lại phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Bác yêu cầu về việc xin trả dần của ông Châu Văn V và bà Lê Thị Bé T.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc Châu Văn V và bà Lê Thị Bé T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định là 9.239.850 đồng (Chín triệu hai trăm ba mươi chín nghìn tám trăm năm mươi đồng). Hoàn lại cho ông Phan Văn Nh số tiền tạm ứng án phí ông Nhiều đã nộp là 4.619.925 đồng (Bốn triệu sáu trăm mười chín nghìn chín trăm hai mươi lăm đồng) theo biên lai thu số 0011765 ngày 04/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 74/2017/DS-ST ngày 18/08/2017 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
Số hiệu: | 74/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về