Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 73/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 24 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 221/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Mỹ H, sinh năm 1994. Địa chỉ: Tổ 16, Ấp 1, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1994. Địa chỉ: Ấp 4, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

(Chị H, anh T vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện ngày 20/3/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Võ Thị Mỹ H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lê Thanh T tự nguyện tìm hiểu và xây dựng gia đình với nhau từ năm 2012, đến năm 2016 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Quá trình chung sống, vợ chồng không hạnh phúc, chị sinh sống tại nhà ba mẹ ruột chị tại huyện N, anh T sinh sống tại nhà ba mẹ ruột anh T tại huyện L. Nguyên nhân do anh T không lo làm ăn lại nghiện ma túy, chị nhiều lần khuyên anh cai nghiện và bỏ ma túy nhưng anh không thay đổi. Do đó, anh chị dã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay anh chị không thể hàn gắn tính cảm được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là Lê Ngọc D, sinh ngày 28/02/2013. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, con chung do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Hiện chị có công việc và thu nhập ổn định (buôn bán tự do, thu nhập trung bình khoảng 15.000.000 đồng/tháng), chị đủ điều kiện kinh tế để nuôi con. Ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị và anh T không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

2. Theo bản tự khai ngày 31/5/2021, bị đơn anh Lê Thanh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Võ Thị Mỹ H tìm hiểu nhau từ năm 2010, đến năm 2012 thì xây dựng gia đình với nhau. Năm 2016 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Năm 2019, vợ chồng anh bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do không còn hợp nhau, không còn đồng quan điểm, tính tình không còn phù hợp, thường hay cãi nhau. Đến ngày 21/01/2021, anh bị Công an huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành từ đó cho đến nay và ly thân chị H cho đến nay. Nay chị H yêu cầu ly hôn thì anh vẫn còn tình cảm với chị H nhưng anh đồng ý ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Ngọc D, sinh ngày 28/02/2013 đang do chị H nuôi dưỡng. Chị H yêu cầu nuôi con, không yêu cầu anh cấp dưỡng thì anh đồng ý.

Về tài sản chung: Anh và chị H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

3. Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong việc xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, tư cách tố tụng, thu thập chứng cứ và tiến hành tố tụng đúng quy định. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn được đảm bảo về quyền lợi; thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về ý kiến giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Võ Thị Mỹ H đối với bị đơn anh Lê Thanh T. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Võ Thị Mỹ H đối với anh Lê Thanh T.

Về con chung: Chị H và anh T có 01 con chung tên Lê Ngọc D, sinh ngày 28/02/2013. Đề nghị xử giao cháu D cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, anh T không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Nhng yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh trụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn chị Võ Thị Mỹ H và bị đơn anh Lê Thanh T có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh T.

[2] Chị Võ Thị Mỹ H và anh Lê Thanh T tự nguyện xây dựng gia đình với nhau vào năm 2012, đến năm 2016 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận kết hôn số 52 ngày 23/6/2016 nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, chị H và anh T xảy ra nhiều mâu thuẫn do không còn đồng quan điểm sống, tính tình không còn phù hợp, thường hay cãi nhau, anh T thường sử dụng ma túy. Đầu năm 2021, anh T bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vợ chồng sống ly thân, không quan tâm chăm sóc nhau.

Xét thấy, trong thời gian chung sống, giữa chị H và anh T có nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, anh T thường hay sử dụng ma túy dẫn đến vợ chồng đã ly thân với nhau từ năm 2017, mỗi người sống mỗi nơi, vợ chồng không còn tình cảm, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không có khả năng đoàn tụ, mục đích của hôn nhân giữa chị H và anh T không đạt được. Chị H yêu cầu ly hôn, anh T đồng ý tuy nhiên chị H và anh T vắng mặt có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt nên không thể ghi nhận sự tự nguyện ly hôn giữa chị H với anh T. Do đó, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị H đối với anh T, xử cho chị H được ly hôn anh T.

[3] Về con chung: Chị H và anh T có 01 con chung tên Lê Ngọc D, sinh ngày 28/02/2013. Ly hôn, chị H yêu cầu được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu D. Xét thấy, cháu D đang do chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; cháu D có nguyện vọng tiếp tục sống với chị H; anh T đồng ý giao cháu D cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng tuy nhiên anh T và chị H vắng mặt có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt nên không thể ghi nhận sự thỏa thuận giữa chị H và anh T. Do đó, cần xử giao cháu D cho chị H được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu. Về cấp dưỡng: Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, chị H và anh T vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ, hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên, cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Chị H cho rằng giữa chị và anh T không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với anh T cho rằng vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị H và anh T đều trình bày vợ chồng không có nợ chung nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Võ Thị Mỹ H khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Lê Thanh T, do đó chị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình nhưng chị H được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005488 ngày 25/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai (chị H đã nộp xong).

[7] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228, Điều 238, 147, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014;

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Võ Thị Mỹ H đối với bị đơn anh Lê Thanh T về tranh chấp ly hôn, nuôi con.

1. Xử cho chị Võ Thị Mỹ H được ly hôn anh Lê Thanh T.

2. Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Ngọc D, sinh ngày 28/02/2013.

Xử giao cháu Lê Ngọc D, sinh ngày 28/02/2013 cho chị Võ Thị Mỹ H được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng: Không xem xét.

Sau khi ly hôn, chị H và anh T vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ, hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên, cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí: Chị Võ Thị Mỹ H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0005488 ngày 25/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai (Chị H đã nộp xong).

5. Chị Võ Thị Mỹ H và anh Lê Thanh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:73/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về