Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 08/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VB, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 73/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 08 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 165/2021/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2021 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị G ; nơi cư trú: Thôn AT, xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân T ; nơi cư trú: Thôn AT, xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Lê Thị G trình bày: Chị và anh Nguyễn Xuân T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 17-12-2002 tại Ủy ban nhân dân xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, anh chị hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn do anh Thành chơi cờ bạc, nợ lần và có quan hệ với người khác. Từ năm 2019 đến nay chị đã về gia đình chị ở cùng thôn sinh sống. Vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau, đối xử với nhau lạnh nhạt.

Nay nhận thấy tình nghĩa vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Xuân T .

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Xuân T có 03 con chung là Nguyễn Xuân Đ, sinh ngày 03-11-2003, Nguyễn Thị T, sinh ngày 25-9-2010 và Nguyễn Hải Y, sinh ngày 21-10-2015. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao con Nguyễn Xuân Đ cho anh Thành trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Thị T và Nguyễn Hải Y cho chị trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chị xin tự giải quyết với anh Thành.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và trong quá trình xét xử, anh Nguyễn Xuân T xác nhận về điều kiện hoàn cảnh kết hôn như chị Lê Thị G trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hòa thuận đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn do anh có chơi bời, nợ nần nên chịG đã bỏ nhà đi khi con thứ 3 mới được 04 tháng tuổi. Năm 2018 chịG trở về nhà, vợ chồng lại xảy ra mâu thuẫn, bất hòa. Từ năm 2019 đến nay chịG về gia đình bố mẹ đẻ ở cùng thôn sinh sống. Vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chịG xin ly hôn anh đồng ý.

Về con chung: Anh và chị Lê Thị G có 03 con chung là Nguyễn Xuân Đ, sinh ngày 03-11-2003, Nguyễn Thị T, sinh ngày 25-9-2010 và Nguyễn Hải Y, sinh ngày 21-10-2015. Khi ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao con Nguyễn Xuân Đ và Nguyễn Hải Y cho anh nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Thị T cho chịG nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con anh xin tự giải quyết với chịG .

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng đồng thời phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về: Thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách của những người tham gia tố tụng; thu thập chứng cứ và các hoạt động tố tụng khác. Nguyên đơn, bi đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 55 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị G và anh Nguyễn Xuân T . Về con chung: Giao con Nguyễn Xuân Đ, sinh ngày 03-11-2003 và Nguyễn Hải Y, sinh ngày 21-10-2015 cho anh Nguyễn Xuân T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Thị T, sinh ngày 25-9- 2010 cho chịG trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chịG và anh Thành tự giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Chị Lê Thị G và anh Nguyễn Xuân T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Lê Thị G phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Anh Nguyễn Xuân T có hộ khẩu thường trú tại Thôn AT, xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án ly hôn giữa chị Lê Thị G và anh Nguyễn Xuân T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng.

- Về nội dung vụ án:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị G và anh Nguyễn Xuân T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 17-12-2002 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị hoà thuận thời gian đầu và có ba con chung. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh là do bất đồng quan điểm về tình cảm và kinh tế nên chịG đã về gia đình chị ở cùng thôn sinh sống. Vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chịG và anh Thành đều xác định tình nghĩa vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, anh chị cùng đề nghị Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Xét yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn của chị Lê Thị G và anh Nguyễn Xuân T là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình được chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Lê Thị G và anh Nguyễn Xuân T có ba con chung là Nguyễn Xuân Đ, sinh ngày 03-11-2003, Nguyễn Thị T, sinh ngày 25-9-2010 và Nguyễn Hải Y, sinh ngày 21-10-2015. Khi ly hôn, chịG đề nghị Tòa án giao hai con là Nguyễn Thị T và Nguyễn Hải Y cho chị nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Xuân Đ cho anh Thành nuôi dưỡng, anh Thành đề nghị nuôi hai con là Nguyễn Xuân Đ và Nguyễn Hải Y, giao con Nguyễn Thị T cho chịG nuôi dưỡng. Xét yêu cầu đề nghị nuôi con chung của anh chị, Hội đồng xét xử nhận định: ChịG và anh Thành đều có nơi ở và thu nhập, cháu Nguyễn Thị T hiện đang ở với chịG và có nguyện vọng xin được ở với mẹ. Cháu Nguyễn Xuân Đ có nguyện vọng xin ở với bố, cháu Nguyễn Thị Yến hiện đang ở với anh Thành, được anh và gia đình trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng từ nhỏ. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, cần chấp nhận yêu cầu của anh Thành, giao con Nguyễn Xuân Đ và Nguyễn Hải Y cho anh Thành trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Thị T cho chịG trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chịG và anhThành tự giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Lê Thị G và anh Nguyễn Xuân T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị G phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 55 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị G và anh Nguyễn Xuân T .

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Xuân Đ, sinh ngày 03-11-2003 và Nguyễn Hải Y, sinh ngày 21-10-2015 cho anh Nguyễn Xuân T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Thị T, sinh ngày 25-9-2010 cho chị Lê Thị G trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chị Lê Thị G và anh Nguyễn Xuân T tự giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Lê Thị G và anh Nguyễn Xuân T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị G nhận chịu 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. ChịG đã nộp tạm ứng 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện VB theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0017661 ngày 19 tháng 7 năm 2021. Hoàn trả lại chị Lê Thị G 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng).

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 08/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:73/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về