Bản án 73/2021/DS-PT ngày 17/06/2021 về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 73/2021/DS-PT NGÀY 17/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GỬI GIỮ TÀI SẢN 

Ngày 17 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 222/2020/TLPT-DS ngày 30/10/2020 về việc “Tranh chấp Hợp đồng gửi giữ tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 81/2020/DS-ST ngày 17/07/2020 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 241/2020/QĐPT-DS ngày 25 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1984 Cư trú: ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1967 Cư trú: ấp L , xã L, huyện C, tỉnh An Giang.

Địa chỉ liên hệ: ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang.

(Tại phiên tòa có mặt bà X, vắng mặt ông Đ) Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị X – Bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung án sơ thẩm Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ do ông Nguyễn Văn P đại diện theo ủy quyền trình bày: Vào ngày 27/3/2020 ông Đ đi đồng và có gửi cho bà Nguyễn Thị X (bà Ba S) số tiền 50.000.000 đồng, đến khoảng 10 giờ 20 phút cùng ngày ông Đ có nghe Công an huyện C bắt tụ điểm đá gà, chơi tài xỉu tại nhà bà X, khoảng 02 tiếng sau Công an huyện C ra về, ông Đ có lại hỏi bà X lấy lại số tiền 50.000.000 đồng thì bà X bảo là Công An huyện vào bắt xòng tài xỉu nhà bà nên bà không biết ai lấy. Đến ngày 12/4/2020 ông Đ có đơn tường trình gởi Công an xã L để tường trình về việc bà X giữ tiền mà không trả, sau đó Công an xã L có mời bà X làm việc, tại buổi làm việc bà X cũng thừa nhận có nhận giữ tiền của ông số tiền 50.000.000 đồng, nhưng khi Công an huyện C ập vào bắt xòng tài xỉu nhà bà, đến khi sự việc xong thì bà bảo không biết ai lấy nên bà không có tiền trả. Nay ông Đ yêu cầu bà X trả lại cho ông số tiền 50.000.000 đồng, ngoài ra không yêu cầu gì khác.

Bị đơn bà Nguyễn Thị X trình bày: Bà không đồng ý theo yêu cầu của ông Đ yêu cầu bà trả số tiền 50.000.000 đồng, lý do là ông Đ không phải là dân đi làm ruộng, ông Đ là dân chơi tài xỉu, mục đích ông Đ gửi tiền cho bà vì ông chơi tài xỉu sợ Công an lấy tiền của ông. Tại biên bản làm việc ngày 15/4/20020 của Công an xã L bà thừa nhận có giữ tiền của ông Đ để vào lu gạo, do đông người nên đã mất nhưng không biết ai lấy. Nay số tiền bị mất nên bà không còn giữ nữa nên bà không đồng ý trả số tiền 50.000.000 đồng cho ông Đ Tại Bản án sơ thẩm số 81/2020/DS-ST ngày 17/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Đ.

Buộc bà Nguyễn Thị X có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn Đ số tiền gửi giữ 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 27/7/2020 bà Nguyễn Thị X có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, bà yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, bởi vì số tiền 50.000.000 đồng ông Đ gửi bà giữ đã không còn nên bà không đồng ý trả lại theo yêu cầu của ông Đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vắng mặt, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Bà X trình bày: ông Đ chỉ đưa gửi bà cọc tiền nói là 50.000.000đ, bà nhận nhưng không có đếm lại xem là bao nhiêu tiền, ngày 27/3/2021 khi Công an xã L, huyện C đến khám xét, trong lúc hoảng loạn không biết ai lấy mất các cọc tiền của ông Đ nên bà không đồng ý trả số tiền trên cho ông Đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu:

- Về thủ tục tố tụng: Kháng cáo của bà Nguyễn Thị X là phù hợp pháp luật; Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử. Các đương sự cũng đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Số tiền gửi được hai bên xác nhận chỉ nói gửi 50.000.000đ, chứ không có kiểm đếm số tiền gửi trên, nên chưa đủ cơ sở xác định số tiền gửi là 50.000.000đ.

Do đó, án sơ thẩm buộc bà X trả lại Đ số tiền đã gửi là chưa đủ căn cứ. Cấp phúc thẩm không thể bổ sung làm rõ được các nội dung trên tại phiên tòa hôm nay. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2020/DS-ST ngày 17/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện C. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Bà Nguyễn Thị X kháng cáo trong hạn luật định và có đóng tạm ứng án phí đầy đủ nên được Hội đồng xét xử giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[1.2] Về xét xử vắng mặt: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt khi Tòa án xét xử, căn cứ vào khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà X, thấy: Ngày 27/3/2020, ông Nguyễn Văn Đ có gửi cho bà Nguyễn Thị X giữ số tiền 50.000.000 đồng để đi ruộng. Đến khoảng 10 giờ 20 phút cùng ngày, Công an huyện C bắt quả tang điểm đá gà ăn thua bằng tiền tại khu vực đất của bà X. Sau khi Công an huyện C làm việc xong, ông Đ có gặp bà X để lấy lại số tiền đã gửi nhưng bà X nói đã bị mất. Nay, ông Đ yêu cầu bà X trả số tiền 50.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi thì bà X không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Đ.

[2.1] Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án tỉnh An Giang có Công văn yêu cầu cung cấp toàn bộ hồ sơ xử lý của Công an huyện C đối với vụ việc tổ chức đánh bạc xảy ra tại nhà bà Xốp vào ngày 27/3/2020. Qua kết quả xác minh và tài liệu chứng cứ thu thập được do Công an huyện C cung cấp, cho thấy tại Biên bản sự việc quả tang ngày 27/3/2020, Công an huyện C đã tạm giữ 33 đối tượng tham gia đánh bạc, qua lấy lời khai 33 đối tượng đều không xác định việc Đ có tham gia đánh bạc; Báo cáo đề xuất xử lý vụ đánh bạc và Công văn số 188/TTP-VP ngày 24/4/2020 của Phòng Tư pháp huyện Chợ Mới về việc trả lời kết quả thẩm định tính pháp lý hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính thì không có đối tượng nào được nêu là ông Nguyễn Văn Đ và số tiền 50.000.000 đồng nên xác định ông Đ không phải là người đánh bạc tại thời điểm đó và số tiền 50.000.000 đồng ông Đ gửi bà X không phải là tiền đánh bạc trong ngày Công an huyện C bắt quả tang tụ điểm đá gà, chơi tài xỉu ăn thua bằng tiền tại nhà bà X vào ngày 27/3/2020. Do đó, đối với việc bà X cho rằng số tiền 50.000.000 đồng ông Đ gửi bà giữ là tiền ông Đ sử dụng trong việc đánh bạc là chưa đủ cơ sở xem xét, bà X đã thừa nhận có giữ số tiền ông Đ gửi mà đã bị mất thì bà X phải chịu trách nhiệm đối với số tiền này.

[2.2] Việc ông Đ có gửi cho bà X giữ số tiền 50.000.000 đồng bà X cho rằng chỉ nhận cọc tiền trong bọc đen không biết là bao nhiêu; Tuy nhiên tại biên bản làm việc của Công an xã L ngày 15/4/2020, bà X khai nhận có giữ số tiền 50.000.000 đồng của ông Đ gởi “có đặc điểm 1 cọc tiền loại tờ 500.000đồng” (bút lục 13, 15), tại biên bản làm việc ngày 05/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện C (bút lục 16) bà X cũng khai nhận có giữ số tiền ông Đ gửi nên việc ông Đ yêu cầu bà X phải trả lại số tiền này là có cơ sở. Theo quy định tại các Điều 554, 557 và Điều 559 Bộ luật dân sự Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ, buộc bà Nguyễn Thị X có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn Đ số tiền gửi giữ 50.000.000 đồng là có căn cứ.

[3] Bà X kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu của mình để Tòa án xem xét việc bà không đồng ý trả cho ông Đ 50.000.000 đồng là có căn cứ. Do đó, HĐXX phúc thẩm không có cơ sở để xem xét khác.

[4] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bà X phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị X.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 81/2020/DS-ST ngày 17/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Đ.

Buộc bà Nguyễn Thị X có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn Đ số tiền gửi giữ 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về án phí sơ thẩm:

- Bà Nguyễn Thị X phải chịu 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Ông Nguyễn Văn Đ được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 1.250.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0008336 ngày 11/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang.

Về án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị X phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008749 ngày 6/8/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang (đã nộp xong).

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2021/DS-PT ngày 17/06/2021 về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản

Số hiệu:73/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về