Bản án 73/2021/DS-PT ngày 12/05/2021 về tranh chấp bồi thường thiệt hại sức khỏe

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 73/2021/DS-PT NGÀY 12/05/2021 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI SỨC KHỎE

Ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 38/2021/TLPT-DS ngày 17 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại sức khỏe. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2020/DS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 70/2021/QĐ-PT ngày 08 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông S1, sinh năm 1950; Có mặt. Địa chỉ: xã M, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Ông S2, sinh năm 1972; Có mặt. Địa chỉ: xã M, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

3. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông S1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa nguyên đơn ông S1 trình bày:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 11/01/2020 ông S2 và ông Đ đi đến nhà gặp ông để yêu cầu ông ký giáp ranh đất, nhưng ông không đồng ý ký bởi vợ con ông không có nhà, thì ông Đ bỏ đi về, ông S2 vẫn còn ở lại và bước đến chỗ ông có những lời lẽ lăng mạ và đánh ông bất tỉnh. Sau khi tỉnh dậy ông có đến nhà chị G để nhờ chị G gọi điện cho vợ ông về đưa ông đi bệnh viện điều trị. Ông điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang từ ngày 11/01/2020 đến ngày 17/01/2020 và được bác sĩ chuẩn đoán ông bị “Chấn thương đầu và gãy kín 1/3 ngoài xương đòn”, hiện nay ông bị thiệt hại với tỷ lệ thương tích là 10%.

Do đó ông yêu cầu giải quyết buộc ông S2 phải bồi thường về sức khỏe cho ông kể từ ngày 11/01/2020 đến ngày 17/01/2020 cụ thể như sau:

Tiền thuốc điều trị, tiền tái khám là 3.966.821 đồng;

Tiền ăn của ông là 1.400.000 đồng (200.000 đồng x 7 ngày = 1.400.000 đồng); Tiền ăn người nuôi bệnh vợ ông là bà T là 700.000 đồng (100.000 đồng x 7 ngày = 700.000 đồng);

Tiền xe và tiền tổn thất tinh thần là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng);

Tổng số tiền ông S1 yêu cầu ông S2 phải bồi thường là 11.066.821 đồng (Mười một triệu không trăm sáu mươi sáu ngàn tám trăm hai mươi mốt đồng).

* Bị đơn ông S2 trình bày:

Phần đất của gia đình ông và đất của ông S1 giáp ranh với nhau, trong lúc gia đình ông gặp khó khăn, ông mới kêu ông S1 mua lại và ông bán với giá 13.000.000 đồng nhưng ông S1 không mua, sau đó thì ông Đ đồng ý mua với giá 15.000.000 đồng. Khi hai bên ra chỗ phần đất để ông chỉ vị trí đất và ranh giới cho ông Đ, lúc đó ông có kêu ông S1, ông D và ông P cùng vợ chồng ông Đ đi cùng. Tuy nhiên, do ông S1 không ký giáp ranh nên lúc đó hai bên có xảy ra cự cãi, sau đó ông và mọi người đi về. Ông xác định là ông không có đánh và gây thương tích cho ông S1 như ông S1 trình bày, do đó ông không đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của ông S1 và đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo đúng quy định pháp luật.

* Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2020/DS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Kiên Giang quyết định:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông S1 đối với bị đơn ông S2 về việc “Tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và thông báo quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

* Ngày 14/01/2021, nguyên đơn ông S1 kháng cáo với nội dung: Yêu cầu hủy bản án sơ thẩm, buộc ông S2 phải bồi thường về sức khỏe cho ông S1 số tiền 11.066.821 đồng.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn ông S1 vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo, đề nghị buộc ông S2 phải bồi thường về sức khỏe cho ông S1 số tiền 11.066.821 đồng.

- Bị đơn ông S2 không đồng ý bồi thường cho ông S1 vì thực tế ông S2 không đánh ông S1.

- Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và những người tham gia tố tụng trong vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm nghị án tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông S1, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2020/DS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Kiên Giang.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và phát biểu của vị đại viện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông S1 yêu cầu buộc ông S2 phải bồi thường về sức khỏe cho ông S1 số tiền 11.066.821 đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy, nguyên đơn ông S1 xác định rằng ngày 11/01/2020, sau khi ông S2 cự cãi với ông thì ông S2 đã đánh ông ngất xỉu làm cho ông bị thương tích với tỷ lệ 10% (Theo bản kết luận giám định pháp y về thương tích ngày 13/4/2020 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Kiên Giang) và ông đã tốn chi phí điều trị thương tích, do đó ông yêu cầu ông S2 phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông trong một lần với số tiền tổng cộng là 11.066.821 đồng. Bị đơn ông S2 xác định, ông S2 không có gây thương tích cho ông S1, nên không đồng ý bồi thường.

Tại các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của những người làm chứng (bút lục 62, 63, 67, 68, 69, 70) thì tất cả đều xác định rằng chỉ nghe và thấy ông S2 cự cãi với ông S1, không ai trực tiếp nhìn thấy ông S2 đánh ông S1 và ông S1 cũng xác nhận việc ông S2 gây thương tích cho ông không ai chứng kiến, còn việc vợ con ông và chị G biết ông bị thương tích là do ông kể lại. Trong quá trình Công an xã M và Công an huyện C tiếp nhận vụ việc và giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng hình sự thì đã tiến hành xác minh vụ việc nhưng cũng không xác định được việc ông S2 có đánh ông S1 hay không.

Cấp sơ thẩm nhận định, trên thực tế là ông S1 đã bị thiệt hại với tỷ lệ thương tật là 10% (cụ thể là gãy 1/3 xương đòn vùng vai phải), tuy nhiên qua các tài liệu chứng cứ thu thập được thì chỉ thể hiện việc ông S2 có cự cãi với ông S1 nhưng không có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho ông S1, từ đó không xác định được lỗi của ông S2, phù hợp với báo kết quả xác minh số 23/BCKQXM ngày 21/5/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C (BL 74) và quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 12/QĐKKTVA ngày 21/5/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C (BL 75). Cấp sơ thẩm căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của ông S2 đối với ông S1 theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 và mục 1 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông S1 về việc đề nghị buộc ông S2 bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông với số tiền tổng cộng là 11.066.821 đồng là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.

Từ những căn cứ nhận định nêu trên, trong thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử thống nhất, chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên, không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông S1, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2020/DS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Kiên Giang.

[2] Về án phí:

+ Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông S1 là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn án phí và thuộc trường hợp không phải chịu án phí, nên ông S1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

+ Án phí phúc thẩm: Nguyên đơn ông S1 là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn án phí, nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông S1.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2020/DS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Kiên Giang.

Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông S1 về việc “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại sức khỏe” đối với bị đơn ông S2.

2. Về án phí:

2.1 Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông S1 là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn án phí và thuộc trường hợp không phải chịu án phí, nên ông S1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

2.2 Án phí phúc thẩm: Nguyên đơn ông S1 là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn án phí, nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2021/DS-PT ngày 12/05/2021 về tranh chấp bồi thường thiệt hại sức khỏe

Số hiệu:73/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về