Bản án 73/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 73/2020/HS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 66/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Hoàng Công T1 (Tên gọi khác: Không); sinh ngày: 19/9/2002 tại Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: 206/212 đường P, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Công T2, sinh năm 1962 và bà Võ Thị N, sinh năm: 1968; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con nhỏ nhất. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Công T1: Bà Trần Thị Thùy V – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Đà Nẵng, có mặt.

Người bị hại: Bà Lê Thái Minh C, sinh năm: 1994. Nơi ĐKHKTT: Tổ M, phường T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Nơi ở hiện nay: 117 H, phường X, quận T, thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Hoàng Công T2, sinh năm: 1962 (là cha) và bà Võ Thị N, sinh năm: 1968 (là mẹ). Cùng địa chỉ: 206/212 đường P, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, ông T2 và bà N có mặt.

Võ Tấn T3, sinh ngày: 15/5/2005. Địa chỉ: Lô A1, tổ 6 khu vực 3, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

Người đại diện theo pháp luật của Võ Tấn T3:

Ông Võ Trọng P, sinh năm: 1967 (là cha). Địa chỉ: Lô A1, tổ 6 khu vực 3, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

Bà Phan Thị L, sinh năm: 1977 (là mẹ). Địa chỉ: xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác nên vào tháng 7/2019, Hoàng Công T1 và Võ Tấn T3 lập và sử dụng tài khoản facebook “Thành Lê Văn” để đăng thông tin bán chó mèo trên mục dòng thời gian của facebook nhằm mục đích chiếm đoạt tiền của người khác. Thực tế, T1 và T3 không có chó mèo để bán.

Vào ngày 05/11/2019, chị Lê Thái Minh C dùng tài khoản facebook tên “Minh Châu Lê Thái” nhắn tin với tài khoản “Thành Lê Văn” thống nhất mua con mèo với giá 3.300.000 đồng. T1 và T3 yêu cầu chị C chuyển trước số tiền đặt cọc là 1.500.000 đồng, khi nhận được mèo chị C phải đưa tiếp số tiền 1.800.000 đồng, chị C đồng ý.

Đến 21 giờ cùng ngày, tại nhà số 214 đường L, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng, thông qua dịch vụ Mobile Banking chị C sử dụng tài khoản 3150001033146 mở tại Ngân hàng BIDV chuyển số tiền 500.000 đồng vào tài khoản 0161001746016 mở tại Ngân hàng Vietcombank, chi nhánh Huế, chủ tài khoản là Hoàng Công T1.

Khoảng 09 Giờ ngày 06/11/2019, T1 và T3 nói đang gửi mèo vào Đà Nẵng nên tiếp tục yêu cầu chị C chuyển số tiền 1.000.000 đồng, chị C đồng ý và chuyển tiền vào tài khoản của T1 nêu trên. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, T1 và T3 nói với chị C là đã chuyển mèo vào bến xe Đà Nẵng cho chị C và yêu cầu chị C thanh toán số tiền 1.800.000 đồng còn lại, chị C đồng ý và chuyển số tiền còn lại.

Sau khi chị C chuyển tiền xong, T1 liền ra Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Huế để rút tiền, còn T3 thì chặn facebook của chị C rồi tiến hành xóa facebook “Thành Lê Văn”. Không thấy mèo được chuyển vào, chị C tìm cách liên lạc với T1 và T3 nhưng không được, biết mình bị lừa nên chị C đã đến Cơ quan Công an thành phố Huế trình báo sự việc. Đến ngày 19/12/2019, Công an thành phố Huế chuyển hồ sơ đến Công an quận Hải Châu để thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

Tổng số tiền chị Lê Thái Minh C bị Hoàng Công T1 và Võ Tấn T3 chiếm đoạt là 3.300.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) tập tài liệu bao gồm 16 tờ giấy A4 với nội dung là đoạn hội thoại giao dịch mua bán mèo của tài khoản facebook “Thành Lê Văn” vào ngày 06/11/2019.

Công văn cung cấp thông tin của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Huế cung cấp về thông tin giao dịch số tài khoản 0161001746016 của Hoàng Công T1 phù hợp với việc chuyển tiền của chị Lê Thái Minh C.

Ngoài ra trong quá trình điều tra, T31 và T còn khai nhận cũng với thủ đoạn tương tự, từ khoảng đầu năm 2019 T1 và T3 đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều người khác; riêng T1 cùng với Huỳnh Công T4 (không rõ nhân thân, lai lịch) đã thực hiện nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tiền của nhiều người. Hiện nay chưa xác định được bị hại, cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu đã truy tìm bị hại nhưng chưa có kết quả.

Tại bản cáo trạng số 71/CT-VKS ngày 18/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Hoàng Công T1 về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm, giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Hoàng Công T1 phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51; Điều 36; Điều 91; Điều 100 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Công T1 từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

Người bào chữa cho bị cáo tranh luận: Thống nhất với điều luật áp dụng và mức hình phạt theo bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo T1 phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ để giáo dục, răn đe, cảm hóa bị cáo và cho bị có cơ hội cải tạo tiếp tục học nghề trở thành người công dân tốt.

Tại phiên tòa, quá trình xét hỏi bị cáo Hoàng Công T1 thừa nhận hành vi phạm tội như trong bản cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến tranh luận.

Ông Hoàng Công T2 và bà Võ Thị N xác nhận lời khai của bị cáo T1 tại phiên tòa là đúng. Ông bà không có yêu cầu bị cáo hoàn lại số tiền đã bồi thường cho người bị hại.

Võ Tấn T3 thừa nhận hành vi như trong bản cáo trạng và lời khai của Hoàng Công T1 là đúng và không có ý kiến gì.

Ông Võ Trọng P xác nhận lời khai của Võ Tấn T3 tại phiên tòa là đúng. Ông không có ý kiến gì.

Bị cáo Hoàng Công T1 nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về xác định tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó có cơ sở để xác định: Vào ngày 05 và 06/9/2019, thông qua mạng xã hội facebook Hoàng Công T1 và Võ Tấn T3 đã dùng thủ đoạn gian dối là giả bán mèo để chị Lê Thái Minh C chuyển tiền tại địa chỉ 214 đường L, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng cho T1 và T3, số tiền chiếm đoạt là 3.300.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo Hoàng Công T1 đã phạm vào tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Hoàng Công T1 là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thì thấy: Do không có công nghề nghiệp và công việc ổn định, không có tiền tiêu xài, lợi dụng sự yêu thích thú cưng và chủ quan của những người sử dụng mạng xã hội facebook nên Hoàng Công T1 và Võ Tấn T3 đã cùng nhau lập tài khoản facebook để bán mèo trên mạng nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo Hoàng Công T1 là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh xã hội. Do đó cần phải xử phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo gây ra.

Về các tình tiết tăng nặng: Không có.

Về các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Hoàng Công T1 phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức có phần hạn chế, tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, bị cáo đã bồi thường cho người bị hại nên khi quyết định mức hình phạt Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b, h, s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Bị cáo Hoàng Công T1 phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, giá trị tài sản chiếm đoạt không lớn, phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi. Đồng thời, bị cáo có ba tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội bắt chấp hành hình phạt tù mà cần áp dụng Điều 36 Bộ luật hình sự cho bị cáo cải tạo không giam giữ, giao địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng thỏa đáng. Bị cáo Hoàng Công T1 chưa có việc làm nên HĐXX miễn khấu trừ thu nhập để sung công quỹ Nhà nước đối với bị cáo.

[4] Ngoài ra, T1 và T3 còn khai nhận cũng với thủ đoạn tương tự, từ khoảng đầu năm 2019 T1 và T3 đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều người khác; riêng T1 cùng với Huỳnh Công T4 (không rõ nhân thân, lai lịch) đã thực hiện nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tiền của nhiều người. Hiện nay chưa xác định được bị hại, cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu đã truy tìm bị hại nhưng chưa có kết quả, sẽ tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với Võ Tấn T3 cùng thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Hoàng Công T1, tại thời điểm phạm tội T3 14 tuổi 05 tháng, là người đã đủ 14 tuổi nhưng dưới 16 tuổi, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật hình sự. Do đó, Công an quận Hải Châu đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Võ Tấn T3 là có căn cứ.

Đối với Huỳnh Công T4, hiện nay chưa xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ nên Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, gia đình bị cáo Hoàng Công T1 đã tự nguyện khắc phục hậu quả bồi thường cho người bị hại 1.650.000 đồng và gia đình Võ Tấn T3 đã bồi thường số tiền 1.650.000 đồng cho người bị hại. Người bị hại đã nhận lại số tiền bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Xét những đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu tại phiên tòa hôm nay là có cơ sở, HĐXX chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51; Điều 36; Điều 91; Điều 100 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Công T1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Xử phạt: Hoàng Công T1 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án.

Giao bị cáo Hoàng Công T1 về Ủy ban nhân dân phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế giám sát giáo dục. Gia đình Hoàng Công T1 có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường T trong việc giám sát, giáo dục. Bị cáo được miễn khấu trừ thu nhập để sung quỹ Nhà nước nhưng phải thực hiện những nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.

3. Về án phí: Bị cáo Hoàng Công T1 phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:73/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về