Bản án 73/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 73/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 233/2020/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 10 năm 2020 về trA chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 79/2020/QĐST- HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020 và quyết định hoãn phiên Tòa số: 70/2020/QĐST- HNGĐ ngày 16/12/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Vân A, sinh năm 1976.

Nơi cư trú: Thôn TT, xã TL, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: A Cao Quyết T, sinh năm 1978.

Nơi cư trú: Thôn N, xã TL, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

(Chị Nguyễn Thị Vân A có đơn xin xét xử vắng mặt, A T vắng mặt tại phiên Tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 05/8/2020 cũng như tại bản tự khai, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Vân A trình bày: Chị và A Cao Quyết T kết hôn với nhau ngày 21/9/2015 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã TL, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng chị bất đồng quan điểm không có tiếng nói chung nên dẫn đến việc vợ chồng thường xuyên xúc phạm dA dự nhau vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8/2018 đến nay là hơn 02 năm. Chị xác định không còn tình cảm với A T, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên chị xin được ly hôn A Cao Quyết T. Về con chung: Vợ chồng chị không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Cao Bá Muôn là bố đẻ của A T trình bày: Lý do mâu thuẫn giữa chị Nguyễn Thị Vân A và A T là do tính tình không hợp, vợ chồng chị Vân A và A T không có con chung và đã sống ly thân. Quan điểm đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Bị đơn là A Cao Quyết T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc Tòa án thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên Tòa nhưng A T cố tình không đến Tòa án.

Tại phiên Tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Vân A được ly hôn A Cao Quyết T. Về quan hệ con chung: Không có con chung nên không phải giải quyết. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Không phải giải quyết. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Vân A phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả trA luận tại phiên toà.

Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Vân A có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử theo trình tự vắng mặt của nguyên đơn.

A Cao Quyết T là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên căn cứ vào khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt A T.

Về nội dung vụ án:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Vân A và A Cao Quyết T kết hôn với nhau có đăng ký ngày 21/9/2015, tại Ủy ban nhân dân xã TL, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đây là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống giữa chị Nguyễn Thị Vân A và A T không tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ nhau không cùng nhau chia sẻ thực hiện công việc trong gia đình. Giữa chị Nguyễn Thị Vân A và A Cao Quyết T đều bất đồng về suy nghĩ cũng như lối sống, hành động đều trái ngược nhau, do đó hai bên không quan tâm, không có trách nhiệm và N vụ với nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. A T không đến Tòa án tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, không có mặt tại phiên Tòa chứng tỏ A T bỏ mặc, không quan tâm đến chị Nguyễn Thị Vân A, thể hiện không thiện chí trong việc cải thiện tình trạng hôn nhân đang mâu thuẫn trong khi chị Nguyễn Thị Vân A xác định không còn tình cảm vợ chồng với A T, kiên quyết xin ly hôn A T. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Vân A và A Cao Quyết T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Vân A, xử cho chị Nguyễn Thị Vân A được ly hôn A Cao Quyết T.

[2]. Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Vân A và A Cao Quyết T không có con chung nên không phải giải quyết.

[3]. Về quan hệ tài sản và nợ chung chị Nguyễn Thị Vân A khai: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. A T không có văn bản gửi Tòa thể hiện quan điểm của mình về phần tài sản và không có lời khai về phần tài sản, không có mặt tại phiên tiếp cận chứng cứ công khai và hòa giải, tại phiên Tòa. Do đó phần tài sản Tòa án không giải quyết. Khi nào các đương sự có yêu cầu chia tài sản phải thực hiện thủ tục khởi kiện theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án sẽ thụ lý giải quyết bằng một vụ án khác.

[4]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Vân A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5]. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Vân A và A Cao Quyết T có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 1, khoản 3 điều 228, điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Vân A được ly hôn A Cao Quyết T.

2. Về quan hệ con chung: Không có con chung nên không phải giải quyết.

3. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Tòa án không giải quyết về phần tài sản. Khi nào chị Nguyễn Thị Vân A và A Cao Quyết T có yêu cầu chia tài sản phải thực hiện thủ tục khởi kiện theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết bằng vụ án khác.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Vân A phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Chị Nguyễn Thị Vân A đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 0009722 ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Chuyển số tiền chị Nguyễn Thị Vân A đã nộp tạm ứng 300.000 đồng sang tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Vân A và A Cao Quyết T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:73/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về