Bản án 73/2020/DS-ST ngày 22/05/2020 về tranh chấp giao dịch hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 73/2020/DS-ST NGÀY 22/05/2020 VỀ TRANH CHẤP GIAO DỊCH HỤI

Ngày 22 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 291/2019/TLST-DS ngày 02 tháng 7 năm 2019, về “Tranh chấp giao dịch hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2020/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Tôn Thị Q, sinh năm: 1961 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp 3, xã T, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Ông Trương Văn A (vắng mặt).

Bà Võ Thị Kh (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp 3, xã T, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện và tại phiên tòa, bà Tôn Thị Q trình bày: Bà có tham gia góp vốn trong dây hụi mở ngày 10/3/2017 âm lịch, dây hụi gồm 12 thành viên, loại hụi vàng, chưng sống góp 04 chỉ vàng 24K, chưng chết đóng lại 05 chỉ vàng 24K, mỗi năm khui 02 kỳ vào ngày 10/3 và ngày 10/9, ngày mãn hụi là ngày 10/9/2022 âm lịch. Ông Trương Văn A và bà Võ Thị Kh đã tham gia 01 chưng hụi và hốt hụi ở kỳ thứ 03 (ngày 10/3/2018 âm lịch). Sau khi hốt hụi, ông A và bà Kh đóng hụi chết được 02 kỳ bằng 10 chỉ vàng 24K thì ngưng đến nay. Tính đến ngày mãn hụi, ông A và bà Kh còn nợ 07 kỳ hụi chết chưa đóng bằng 35 chỉ vàng 24K. Từ nội dung trên, bà yêu cầu ông A và bà Kh phải có nghĩa vụ trả lại cho bà 04 chỉ vàng 24K mà bà đã góp trước đây. Đối với 01 chỉ vàng lãi bà xin rút lại yêu cầu, ngoài ra bà không yêu cầu khoản nào khác.

* Đối với ông Trương Văn A và bà Võ Thị Kh, mặc dù đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, phiên họp hoà giải và xét xử nhiều lần thông qua thủ tục niêm yết công khai văn bản tố tụng nhưng ông A, bà Kh vẫn không có ý kiến phản hồi, đồng thời cũng không có mặt tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Các bên đương sự bắt đầu phát sinh giao dịch từ ngày 10/3/2017 âm lịch đến ngày 10/3/2019 âm lịch ông A và bà Khoa ngưng đóng hụi chết cho đến nay. Do đó, nguyên đơn khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nên thời hiệu khởi kiện vẫn đảm bảo theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật dân sự. Về thẩm quyền và loại việc các bên tranh chấp là giao dịch hụi nên loại việc tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điêu 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc vắng mặt của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có mặt; đối với bị đơn, mặc dù đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, phiên họp hoà giải và xét xử nhiều lần thông qua thủ tục niêm yết công khai các văn bản tố tụng nhưng ông A và bà Kh vẫn không có ý kiến phản hồi, đồng thời cũng không có mặt tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn đặt ra được xác định là giao dịch về hụi. Việc thỏa thuận giao dịch này được xác lập trên tinh thần tự nguyện, có lập giấy giao kèo đóng góp vốn để chơi hụi vàng, được 12 thành viên thống nhất ký tên, có quy định nội dung chơi hụi, định mức giao nộp, thời gian mở hụi, chung hụi, hình thức xử lý, có bầu tổ trưởng, tổ phó để đôn đốc các thành viên thực hiện tốt việc chơi hụi. Quá trình tham gia chơi hụi, ông A và bà Kh đã hốt hụi nhưng không thực hiện nghĩa vụ đóng hụi chết, đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên có cơ sở để chấp nhận thanh lý hợp đồng.

[3] Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc giao dịch hụi trên thực tế là có diễn ra, được xác lập trên tinh thần thỏa thuận tự nguyện, có 12 thành viên góp vốn xác nhận. Quá trình tham gia hụi, ông A và bà Kh đã hốt hụi, bà Q đã góp hụi cho ông A và bà Kh 04 chỉ vàng 24K nhưng ông A, bà Kh không thực hiện nghĩa vụ đóng hụi sau khi hốt hụi. Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, phiên họp hoà giải và xét xử nhiều lần nhưng ông A và bà Kh vẫn không có ý kiến phản hồi, đồng thời cũng không có mặt tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên ông A và bà Kh phải gánh chịu hậu quả của việc không chứng minh hoặc chứng minh không đầy đủ. Do đó, việc bà Q yêu cầu ông A và bà Kh trả lại cho bà 04 chỉ vàng 24K là có cơ sở chấp nhận.

[4] Đối với khoản vàng lãi, bà Q yêu cầu ông A và bà Kh trả 01 chỉ vàng 24K, mặc dù tại đơn khởi kiện ngày 30/5/2019, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số vàng này. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn xin rút yêu cầu đối với khoản vàng lãi 01 chỉ vàng 24K mà bị đơn chưa đóng hụi chết. Xét thấy, việc rút yêu cầu nói trên là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 3 Điều 218, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Tôn Thị Q về việc yêu cầu ông Trương Văn A và bà Võ Thị Kh phải trả lại khoản vàng lãi 01 chỉ vàng 24K. Nếu sau này bà Q khởi kiện lại và pháp luật có quy định việc tính lãi suất vàng cũng như thời hiệu khởi kiện vẫn còn thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác. Bà Q không phải chịu án phí đối với yêu cầu đã đình chỉ xét xử.

[5] Ông A và bà Kh có nghĩa vụ thực hiện việc thanh toán nợ cho bà Q nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Tại thời điểm xét xử, giá vàng được tính là 4.710.000đ/chỉ (04 chỉ x 4.710.000đ x 5% = 942.000đ). Bà Q không phải chịu án phí, đã nộp tạm ứng án phí nên được hoàn lại.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 471 của Bộ luật dân sự;

- Căn cứ Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường;

- Căn cứ Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tôn Thị Q – buộc ông Trương Văn A và bà Võ Thị Kh có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Q 04 chỉ vàng 24K. (Bốn chỉ vàng hai mươi bốn Kara).

2/ Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Tôn Thị Q về việc yêu cầu ông Trương Văn A và bà Võ Thị Kh phải trả khoản vàng lãi là 01 chỉ vàng 24K. Nếu sau này bà Q khởi kiện lại và pháp luật có quy định việc tính lãi suất vàng cũng như thời hiệu khởi kiện vẫn còn thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác. Bà Q không phải chịu án phí đối với yêu cầu đã đình chỉ xét xử.

3/ Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch buộc ông Trương Văn A và bà Võ Thị Kh phải chịu 942.000đ khi bản án có hiệu lực pháp luật. Bà Tôn Thị Q không phải chịu án phí, ngày 02 tháng 7 năm 2019, bà Q đã nộp tạm ứng án phí 473.000đ theo biên lai số: 3363 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được hoàn lại khi bản án có hiệu lực pháp luật. Bà Q có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông A và bà Kh được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2020/DS-ST ngày 22/05/2020 về tranh chấp giao dịch hụi

Số hiệu:73/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về