Bản án 73/2019/HSST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 73/2019/HSST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 66/2019/HSST ngày 08 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với:

Bị cáo Nguyễn Đức T; sinh ngày 06 tháng 10 năm 1970 tại Thanh Hóa; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn 3 , xã H, huyện L, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Đỗ Thị L; vợ: Lê Thị H và có 02 con; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/8/2019 đến nay. Có mặt.

Người làm chứng:

Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1969. Vắng mặt

Anh Mai Văn Th, sinh năm 1959. Vắng mặt

Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1983. Vắng mặt

Đều có địa chỉ: Thôn 3 , xã H, huyện L, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Vào khoảng 12 giờ 10’ngày 23/8/2019 tổ công tác của Đồn biên phòng Đa Lộc, Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa đang làm nhiệm vụ tại địa bàn xã H, huyện L thì phát hiện thấy Nguyễn Đức T đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu T dừng lại để kiểm tra, bắt quả tang Nguyễn Đức T đang cất giấu ở túi quần bên phải 01 túi nilon màu xanh, bên trong là lớp giấy màu trắng và chất bột màu trắng ngà dạng nén vụn, T đã khai nhận đó là chất ma túy mới mua để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và thu giữ niêm phong gói chất bột màu trắng ngà dạng nén vụn để trưng cầu giám định.

Tại kết luận giám định số 1967/MT-PC09 ngày 26/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: Chất bột màu trắng ngà dạng nén vụn của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,263g loại Heroine.

Về nguồn gốc ma túy Nguyễn Đức T khai nhận do T là người nghiện chất ma túy nên vào khoảng 11 giờ ngày 23/8/2019 chị Nguyễn Thị X (em gái T) cho T 280.000 đồng để mua thức ăn cho gia đình nhưng T dùng số tiền trên để đi xe buýt lên Cầu Lèn, thị trấn H, huyện H, T mua ma tuý của một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết tên với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy T đi về, trên đường về nhà để tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện và bắt quả tang.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho T khoảng 30 tuổi cơ quan điều tra chưa xác định được tên, địa chỉ nên chưa có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 69/CT-VKSHL ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật nêu trên và sau khi đánh giá tính chất vụ án, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án.

Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Đức T từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lời bất chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định. Về án phí: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Vào khoảng 12 giờ 10’ngày 23/8/2019 tổ công tác của Đồn biên phòng Đa Lộc đã phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Đức T đang tàng trữ trái phép 0,263g loại Heroine. Hành vi của Nguyễn Đức T đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3]. Xét tính chất của vụ án thì thấy: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu nơi cộng đồng dân cư, gây suy thoái về đạo đức, băng hoại giống nòi, ảnh hưởng đến hạnh phúc của gia đình. Do đó phải xử lý nghiêm, có hình phạt phù hợp nhằm giáo dục bị cáo, giáo dục chung cho xã hội và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo.

[4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm phải tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lời bất chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng: Số ma túy đã thu giữ của Nguyễn Đức T là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ( ngày 23/8/2019).

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng số 07/CCTHA ngày 06/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HSST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lang Chánh - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về