TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 73/2019/HS-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 72/2019/HSST ngày 07 tháng 6 năm 2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2019/QĐXXST-HS ngày 27/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2019/HSST-QĐ ngày 16/7/2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Trung H sinh năm 1994, tại tỉnh Tiền Giang; nơi cư trú: số 10/3B đường N, phường 3, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn 03/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; con Nguyễn Đức N sinh năm 1954 và bà Trần Thị H sinh năm 1957; bị cáo có chưa có vợ, chưa có con; tiền sự: Không có; tiền án: 02 lần. Bị cáo Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại: Huỳnh Quốc T, sinh năm 1983 (vắng mặt);
Trú tại: số 1/3 đường N, khu phố 3, phường 2, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Nguyễn Thị Kim Y, sinh năm 1992 (vắng mặt);
Trú trại: số 55/9B đường Đ, phường 2, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 04 giờ ngày 18/01/2019, bị cáo Nguyễn Trung H đi bộ ngang Ban chỉ huy quân sự phường 2, thành phố Mỹ Tho. Bị cáo H nhìn thấy cửa sổ phòng làm việc của anh Huỳnh Quốc T mở. H nhìn vào bên trong thấy anh T ngủ, trên bàn làm việc sát cửa sổ có để một chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 G610 Black màu đen của anh T đang sạc pin nên nảy sinh ý định lấy trộm. Bị cáo H đã nhón chân, tay trái bám vào cửa sổ, tay phải thò vào trong rút điện thoại ra khỏi dây sạc. Sau đó, bị cáo H đã đem điện thoại trộm của anh T bán cho chị Nguyễn Thị Kim Y với giá 300.000 đồng để tiêu xài hết. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, anh T phát hiện điện thoại bị mất nên đến Công an phường 2, thành phố Mỹ Tho trình báo. Chị Y không biết điện thoại do bị cáo H trộm cắp mà có và đã giao nộp nên Cơ quan điều tra không khởi tố Y về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Theo bản kết luận định giá tài sản số 176 ngày 13/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Mỹ Tho xác định: Điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Prime G610 Black có giá trị là 4.200.637 đồng.
Tại Cáo trạng số 79/CT-VKS-HS ngày 31 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho đã truy tố bị cáo Nguyễn Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho vẫn giữ nguyên quan điểm về tội danh và khung hình phạt như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H từ 02 đến 03 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”
Về vật chứng: Đề nghị Hội xét xử ghi nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Huỳnh Quốc Tiến một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 G610 Black.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Huỳnh Quốc T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Chị Nguyễn Thị Kim Y không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 300.000 đồng đã bỏ ra mua điện thoại nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Phát biểu tự bào chữa của bị cáo Nguyễn Trung H: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra thành phố Mỹ Tho, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều không có khiếu nại hay có ý kiến gì về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trung H đã khai nhận về hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 04 giờ ngày 18/01/2019, bị cáo Nguyễn Trung H đi bộ ngang Ban chỉ huy quân sự phường 2, thành phố Mỹ Tho. Bị cáo H nhìn thấy cửa sổ phòng làm việc của anh Huỳnh Quốc T mở. Bị cáo H đã lợi dụng sự sơ hở của anh T ngủ quên không đóng cửa sổ nên bị cáo H đã lén lút nhón chân, tay trái bám vào cửa sổ, tay phải thò vào trong rút điện thoại ra khỏi dây sạc. Giá trị thiệt hại về tài sản là 4.200.637 đồng. Bản thân bị cáo H có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện nên bị cáo H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần phải có một hình phạt nghiêm khắc là cách ly bị cáo ra khỏi xã một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục cho các bị cáo biết tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung. Ngày 29/7/2017, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 103/2017/HSST). Bị cáo H bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã chấp hành xong bản án vào ngày 14/11/2018. Đến ngày 18/01/2019, bị cáo H thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm. Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho đã đưa ra chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo H về tội phạm nêu trên là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật Nhà nước ta bảo vệ, hành vi đó không chỉ làm thiệt hại đến tài sản của người khác, mà còn gây hoang mang làm cho nhân dân không an tâm lao động, sản xuất, gây mất trật tự xã hội
[4] Đối với Nguyễn Thị Kim Y không biết điện thoại do bị cáo H trộm cắp mà có và đã giao nộp nên Cơ quan điều tra không khởi tố Y về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là đúng quy định pháp luật.
[5] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền sự. Tuy nhiên, ngày 25/02/2009, bị cáo bị đưa vào trường giáo dưỡng 18 tháng theo Quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố Mỹ Tho. Bị cáo đã chấp hành xong vào ngày 28/6/2010.
Bị cáo H có 02 tiền án gồm: Ngày 08/9/2014, bị cáo H bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho xử phạt 01 năm 03 tháng tù giam về tội “Trộm căp tài sản” (Bản án số 179/2014/HSST). Ngày 22/9/2017, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 103/2017/HSST). Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã chấp hành xong bản án vào ngày 14/11/2018. Ngoài ra, trước đó bị cáo H phạm tội khi chưa thành niên nên đương nhiên được xóa án tích gồm: Ngày 06/6/2012, bị cáo H bị Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xử phạt 02 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 54/2012/HSST). Ngày 22/8/2012, bị cáo H bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 02 năm tù theo Bản án số 54 ngày 06/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy (Bản án số 121/2012/HSST). Hội đồng xét xử nhận thấy, bị cáo H có nhân thân xấu, lần phạm tội này của bị cáo thể hiện sự không chấp hành pháp luật, bị cáo không có ý thức tu dưỡng bản thân để trở thành người tốt.
[6] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo H thật thà khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo theo quy điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tình tiết tăng nặng: Không có
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Huỳnh Quốc T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Chị Nguyễn Thị Kim Y không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 300.000 đồng đã bỏ ra mua điện thoại nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Mỹ Tho đã trả lại cho anh Huỳnh Quốc T một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 G610 Black. Việc xử lý vật chứng phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về mức hình phạt là có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên.
[10] Về án phí: Bị cáo H phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt để thi hành án.
Về vật chứng: Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Mỹ Tho đã trả lại cho anh Huỳnh Quốc T một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 G610 Black.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc anh Huỳnh Quốc T đã nhận lại điện thoại bị mất và không yêu cầu bồi thường gì khác.
Ghi nhận chị Nguyễn Thị Kim Y không yêu cầu bồi thường.
Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Trung H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 73/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 73/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về