Bản án 73/2019/HS-PT ngày 20/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 73/2019/HS-PT NGÀY 20/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 02 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 23/2019/TLPT-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo Y Đ Niê Ksơr, Vương Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 336/2018/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

1. Họ và tên: Vương Ngọc T - Sinh năm 1989, tại Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn X, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Thợ nhôm kính; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vương Đình H và bà Lê Thị S; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/8/2018 cho đến nay - Có mặt.

2. Họ và tên: Y Đ Niê Ksơr, sinh năm 1999, tại tỉnh Đắk Lắk Nơi cư trú: Thôn S, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Y L Êban (Đã chết) và con bà H’J Niê; bị cáo chung sống như vợ chồng với chị H’L Êban và có 01 con chung sinh năm 2017 (hiện nay không còn chung sống nữa); Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 24/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 19/01/2017, chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/8/2018 cho đến nay – Có mặt.

* Người làm chứng: Anh Lê Văn H - Sinh năm 1991

Địa chỉ: Thôn X, xã B h, huyện K, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vương Ngọc T, Y Đ Wit Niê Ksơr và Lê Văn H là những người quen biết nhau và đều là những người sử dụng ma túy đá. Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 14/8/2018, T dùng số điện thoại: 01644713579 gọi đến số điện thoại 0989417673 của Y Đ Wit Niê Ksơr nhờ dẫn đi mua ma túy đá thì Y Đ Wit Niê Ksơr đồng ý và gọi cho 01 đối tượng tên B (chưa rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua ma túy đá. Đến khoảng 09 giờ 00 phút ngày 15/8/2018, T gặp H rủ cùng đi từ huyện K lên thành phố B để mua ma túy đá thì H đồng ý và điều khiển xe môtô Honda Air Blade, biển số: 47L1-210.98 của gia đình chở T đi đến ngã ba Quỳnh Tân, huyện K đợi Y Đ Wit. Một lúc sau, Y Đ Wit điều khiển xe môtô Yamaha Sirius, biển số 47L1-228.31 tới rồi cùng nhau đi đến khu vực Đoàn Kết thuộc xã H, thành phố B gặp B. Tại đây, T đưa cho Y Đ Wit số tiền 4.000.000 đồng, Y Đ Wit đưa cho B, B cầm tiền và điều khiển xe môtô của Y Đ Wit đi đâu không rõ. Khoảng 30 phút sau Bi quay lại đưa cho Y Đ Wit 01 gói nylon chứa ma túy đá, Y Đ Wit bỏ vào túi quần phía trước đang mặc rồi cùng H chở T đi về. Khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày, khi cả 3 đi đến trước địa chỉ số 399 đường Võ Văn Kiệt, phường K, thành phố B thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang Y Đ Wit Niê KSơr và Vương Ngọc T về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, lúc đó H cũng có mặt, thu giữ trong túi quần phía trước bên phải Y Đ Wit Niê KSơr 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể (Y Đ Wit và Thanh khai nhận là ma túy đá) được niêm phong theo quy định của pháp luật.

Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ:

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu BUK, màu đen, Imei: 980028003063158, gắn sim số: 0989417673 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu bạc trắng, Imei: 355876063520690, gắn sim số: 01644713579 là tài sản của bị cáo Y Đ Wit Niê Ksơr và bị cáo Vương Ngọc T;

01 (một) xe môtô nhãn hiệu Honda Air Blade, màu sơn: đen đỏ, BKS: 47L1 - 210.98, số máy: JF63E - 1195303, số khung: RLHJF6302FZ – 656528;

01 (một) xe môtô nhãn hiệu Yamaha, số loại: Sirius, màu sơn: trắng đỏ, BKS: 47L1 - 228.31, số máy: E3X9E - 288769, số khung: RLCUE3210 - HY123217.

Tại Bản kết luận giám định số 721/GĐMT-PC54 ngày 21/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,0016 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 1,8914 gam, được niêm phong.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 336/2018/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Vương Ngọc T, Y Đ Wit Niê Ksơr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 (áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 đối với Y Đ Wit Niê Ksơr) Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Y Đ Wit Niê Ksơr 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/8/2018.

- Xử phạt bị cáo Vương Ngọc T 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/8/2018.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/12/2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk có Quyết định kháng nghị số 04/QĐ-VKS-P7, kháng nghị toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 336/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột với nội dung: Việc Lê Văn H không góp tiền, không chở ma túy trên xe nhưng H đã đi cùng với T và Y Đ Wit để mua ma túy về sử dụng chung. Khi mua ma túy H có mặt tại chỗ và chứng kiến là hành vi giúp sức cho Thanh và Y Đ Wit nên Hội là đồng phạm cần phải khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử vụ án theo hướng hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk giữ nguyên Quyết định kháng nghị và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.

Các bị cáo không tranh luận, bào chữa gì. Còn Lê Văn H thì cho rằng H chỉ đồng phạm với bị cáo T, bị cáo Y Đ Wit về hành vi mua ma túy để cùng sử dụng ma túy và không đồng phạm về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Y Đ Wit Niê Ksơr khai là Lê Văn H có cùng đi mua ma túy với bị cáo và bị cáo T, khi bị cáo T đưa tiền cho bị cáo và bị cáo trả tiền mua ma túy cho tên B, nhận ma túy từ tên B thì H đều có mặt và chứng kiến. Lê Văn H khai là bị cáo T có rủ H đi lên thành phố B để mua ma túy với mục đích cùng sử dụng, H có sử dụng chiếc xe máy của gia đình để chở bị cáo T và có biết việc bị cáo Y Đ Wit và bị cáo T mua ma túy đá. Còn bị cáo T thì khai rằng, bị cáo chỉ rủ H đi lên thành phố B chơi và không nói cho H biết việc mua ma túy. Tuy nhiên, sau khi công bố các lời khai của bị cáo T tại cơ quan điều tra thì bị cáo T thừa nhận lời khai tại cơ quan điều tra là đúng, không bị ép cung, đánh đập và tự nguyện khai báo.

Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận:  Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 15/8/2018, bị cáo Vương Ngọc T, bị cáo Y Đ Wit Niê KSơr và Lê Văn H có hành vi mua ma túy đá của đối tượng tên B để mang về cùng sử dụng, trên đường về thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang và thu giữ trong người của bị cáo Y Đ Wit 01 gói ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng 2,0016 gam. Vì vậy, Bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo Vương Ngọc T và Y Đ Wit Niê KSơr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Vương Ngọc T và Y Đ Wit Niê KSơr không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị nên không xem xét.

[2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, thì thấy:

Bị cáo T, bị cáo Y Đ Wit và Lê Văn H là những người nghiện ma túy, Sau khi được bị cáo T rủ đi mua ma túy thì H đồng ý và sử dụng chiếc xe mô tô của gia đình cùng đi mua ma túy với bị cáo T, bị cáo Y Đ Wit với mục đích để cùng sử dụng ma túy. Quá trình mua ma túy giữa bị cáo T, bị cáo Y Đ Wit và đối tượng tên B, thì H đều chứng kiến và biết rõ. Trên đường về, tuy bị cáo Y Đ Wit là người cất giấu ma túy trong người, nhưng H là người dùng xe mô tô chở bị cáo T là người có tiền mua ma túy và đi theo sau xe mô tô của bị cáo Y Đ Wit cho đến khi bị phát hiện, bắt quả tang. Do vậy, hành vi trên của Lê Văn H là giúp sức cho bị cáo T, bị cáo Y Đ Wit và có dấu hiệu là đồng phạm với bị cáo T, bị cáo Y Đ Wit về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, trong quá trình điều tra lại vụ án, nếu có căn cứ Lê Văn H là đồng phạm trong vụ án thì tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của pháp luật để tránh bỏ lọt tội phạm.

Do có vi phạm nghiêm trọng như đã nhận định trên đây, nên có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk để huỷ Bản án hình sự sơ thẩm số 336/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk để điều tra, truy tố và xét xử lại theo thủ tục chung.

[3] Về án phí: Các bị cáo Vương Ngọc T và Y Đ Wit Niê KSơr không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358, Điều 360 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

[2] Chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk

– Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 336/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk;

[3] Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk để điều tra lại vụ án theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[4] Về án phí: Các bị cáo Vương Ngọc T và Y Đ Wit Niê KSơr không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HS-PT ngày 20/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về