Bản án 73/2019/HNGĐ-ST ngày 16/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 73/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 16 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 61/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thông V - Sinh năm 1985 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện P, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Nguyễn Thị Ánh N - Sinh năm 1982 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn bà ông Nguyễn Thông V trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị Ánh N cưới nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn, hôn nhân do mai mối và được cha mẹ quyết định. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên hay thường cãi nhau. Vợ chồng ly thân khoảng 02 năm nay. Thấy tình cảm không còn ông yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Ánh N. Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thông T - Sinh ngày 08/01/2013 hiện do vợ chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, ông đồng ý để vợ tiếp tục, chăm sóc nuôi dưỡng con chung, đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp

luật, về quan hệ tài sản chung: Không có. về quan hệ nợ chung: Không có.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Ánh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà N vắng mặt không rõ lý do. Nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của bà N về nội dung đơn khởi kiện của ông V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Ông Nguyễn Thông V yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Ánh N. bà N có nơi cư trú tại ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đứng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn bà Nguyễn Thị Ánh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt của bà N được quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự là có căn cứ.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Thông V và bà Nguyễn Thị Ánh N xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau vào năm 2012 có đăng ký kết hôn kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Ông, bà chung sống hạnh phúc được khoảng 02 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Theo ông V trình bày nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường cãi nhau, ông, bà không còn sống chung khoảng 02 năm nay. Ông V xác định tình cảm vợ chồng không thể tồn tại và hàn gắn được; cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên ông yêu cầu ly hôn với bà N. Bà Nguyễn Thị Ánh N đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc ông V khởi kiện yêu cầu ly hôn và thông báo đến Tòa án tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà không có ý kiến về việc khởi kiện của ông V và vắng mặt không lý do. Điều này thể hiện vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Thông V là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử xét chấp nhận.

[4] Về quan hệ con chung: Ông V xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thông T - Sinh ngày 08/01/2013 hiện nay đang sống với bà N. Sau khi ly hôn ông V đồng ý để bà N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy từ lúc vợ chồng ly thân đến nay bà N là người trực tiếp nuôi con chung nên tình cảm tâm tư gắn liền với người nuôi dưỡng, trong quá trình giải quyết bà N vắng nên không ghi nhận được ý kiến của bà N về việc nuôi con chung. Hơn nữa ông V cũng đồng ý để bà N được tiếp tục nuôi con chung xét thấy sự tự nguyện của ông Việc là phù hợp với Điều 81 luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận để bà N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thông T. Ngoài việc để bà N được tiếp tục nuôi con chung ông V còn tự nguyện cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy sự tự nguyện này là phù hợp với Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình xét nên chấp nhận.

[5] Về quan hệ tài sản chung: ghi nhận ông Nguyễn Thông V trình bày không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về quan hệ nợ chung: ghi nhận ý kiến của ông Nguyễn Thông V trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Ông Nguyễn Thông V phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 227, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Các Điều 51, 56 và Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thông V.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Thông V được ly hôn với bà Nguyễn Thị Ánh N.

- Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Thị Ánh N được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Thông T - Sinh ngày 08/01/2013. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Thông V cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 700.000 (Bảy trăm nghìn) đồng cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động.

Bà Nguyễn Thị Ánh N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Thông V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: ghi nhận ông Nguyễn Thông V trình bày không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: Ghi nhận ông Nguyễn Thông V xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của ông, bà trong thời kỳ hôn nhân thì ông Nguyễn Thông V và Nguyễn Thị Ánh N vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác

- Về án phí: Ông Nguyễn Thông V phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0012475 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 16 tháng 01 năm 2019. Ông Nguyễn Thông V còn phải nộp thêm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Ông Nguyễn Thông V được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bà Nguyễn Thị Ánh N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HNGĐ-ST ngày 16/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:73/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về