Bản án 73/2018/HNGĐ-PT ngày 17/05/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 73/2018/HNGĐ-PT  NGÀY 17/05/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày17 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 63/2018/TLPT-HNGĐ ngày18/4/2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 04/2018/HNGĐ- ST ngày 19 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Hà Nội bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2018/QĐ-PT ngày 07 tháng 5 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mai H, sinh năm 1984; cư trú tại: Số 3/173/84 Hoàng Hoa Thám, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Tất Trường S, sinh năm 1972; HKTT: Số 3/173/84 Hoàng Hoa Thám, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội. Hiện tạm trú tại: Số 25, ngõ 207 Hoàng Đăng Bí, Tân Xuân, Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn và lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn – chị Nguyễn Thị Mai H trình bày: Chị và anh Nguyễn Tất Trường S kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 12/11/2008 tại Ủy ban nhân dân phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do quan điểm sống không phù hợp; đến năm 2014 chị đã phải làm đơn ra Tòa án quận Ba Đình xin ly hôn anh S, sau đó vì thương con còn nhỏ nên chị đã rút đơn về để đoàn tụ. Tuy nhiên, anh S vẫn chửi bới, đánh chị và mâu thuẫn căng thẳng nhất vào năm 2016, 2017, hai bên đã sống ly thân.

Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh ly hôn với anh S để chị sớm ổn định cuộc sống.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Tất Trường Giang, sinh ngày 07/11/2009; Nguyễn Hương Giang, sinh ngày 22/01/2015. Ly hôn, chị có nguyện vọng mỗi người nuôi 01 con, chị nuôi cháu Hương Giang còn anh S nuôi cháu Trường Giang, hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau.

- Về tài sản chung, nhà ở: Vợ chồng không có gì, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về công nợ: Chị và anh S không có nợ chung, không ai nợ anh, chị và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản tự khai và các văn bản tố tụng khác của Tòa án, bị đơn – anh Nguyễn Tất Trường S trình bày: Anh thống nhất với ý kiến của chị H về thời gian kết hôn và điều kiện kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do quan điểm không phù hợp. Mặt khác, do anh bị thất nghiệp, lương không có, anh phải đi làm ngoài sửa chữa xe máy với anh trai nên lương không được cao; mâu thuẫn vợ chồng xảy ra chỉ trong gia đình biết, không phải nhờ đến tổ dân phố can thiệp; mâu thuẫn căng thẳng nhất từ năm 2017.

Nay chị H có đơn xin ly hôn, anh không đồng ý ly hôn vì hiện tại 02 con còn nhỏ.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Tất Trường Giang, sinh ngày 07/11/2009; Nguyễn Hương Giang, sinh ngày 22/01/2015. Nếu phải ly hôn, anh đồng ý nuôi cháu Trường Giang, chị H nuôi cháu Hương Giang và hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

- Về tài sản chung, nhà ở: Vợ chồng không có gì, không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Về công nợ: Anh và chị H không có nợ chung, không ai nợ anh, chị và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/2018/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 01 năm 2018 của TAND quận Ba Đình, Hà nội đã xử:

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Mai H đối với anh Nguyễn Tất Trường S. Chị Nguyễn Thị Mai H được ly hôn anh Nguyễn Tất Trường S.

2. Về con chung:Có hai con chung Giao cháu Nguyễn Tất Trường Giang, sinh ngày 07/11/2009 cho anh Nguyễn Tất Trường S trực tiếp nuôi.Giao cháu Nguyễn Hương Giang, sinh ngày 22/01/2015 cho chị Nguyễn Thị Mai H trực tiếp nuôi. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau và có quyền đi lại chăm sóccon chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản và nhà ở: Hai bên xác nhận không có gì, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các bên đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, anh S kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, với lý do anh vẫn còn rất yêu thương vợ và 02 con còn quá nhỏ nên anh không đồng ý ly hôn.

Tại phiên tòa, chị H vẫn giữ nguyên khởi kiện và các lời khai đã trình bày tại Tòa án; anh S giữ nguyên đơn kháng cáo xin được đoàn tụ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc tuân thủ pháp luật của Tòa án, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án là đúng quy định của pháp luật; về nội dung, đề nghị bác kháng cáo của anh Nguyễn Tất Trường S, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của nguyên đơn, bị đơn và Kiểm sát viên; sau khi nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; Đơn kháng cáo của anh Nguyễn Tất Trường S trong hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí đúng thời hạn nên được xem xét.

[2] Xét kháng cáo của anh Nguyễn Tất Trường S thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mai H và anh Nguyễn Tất Trường S kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 12/11/2008 tại Ủy ban nhân dân phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chỉ chung sống hạnh phúc đến năm 2013, sau đó thường xuyên mâu thuẫn. Năm 2014, chị H đã làm đơn ra Tòa án quận Ba Đình xin ly hôn anh S, sau đó vì thương con còn nhỏ nên chị đã rút đơn về để đoàn tụ. Tuy nhiên, cuộc sống vợ chồng vẫn không được cải thiện. Anh S có nguyện vọng mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng kể từ năm 2014 khi chị H lần đầu nộp đơn ra Tòa án, sau đó kể từ khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án ly hôn của anh, chị cho đến nay anh S không có biện pháp để vợ chồng hòa thuận; tại phiên tòa phúc thẩm anh cũng thừa nhận việc này. Điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận đơn ly hôn của chị H là có căn cứ.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Tất Trường Giang, sinh ngày 07/11/2009; cháu Nguyễn Hương Giang, sinh ngày 22/01/2015. Tòa án cấp sơ thẩm giao cho mỗi người nuôi 01 con chung; anh S nuôi cháu Trường Giang, chị H nuôi cháu Hương Giang và hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau là phù hợp.

[2.3] Về tài sản chung và công nợ: Chị H và anh S xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Tất Trường S, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: Do giữ nguyên án sơ thẩm nên anh Nguyễn Tất Trường S phải chịu án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 308, Khoản 1 Điều 148 và Điều 313 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Tất Trường S. Giữ nguyên bản án số 04/2018/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 01 năm 2018 của tòa án nhân dân quận Ba Đình, Hà Nội. Cụ thể như sau:

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Mai H đối với anh Nguyễn Tất Trường S. Chị Nguyễn Thị Mai H được ly hôn anh Nguyễn Tất Trường S.

2. Về con chung: Xác nhận chị H và anh S có 02 con chung là cháu Nguyễn Tất Trường Giang, sinh ngày 07/11/2009; cháu Nguyễn Hương Giang, sinh ngày 22/01/2015.

- Giao cháu Nguyễn Tất Trường Giang, sinh ngày 07/11/2009  cho anhNguyễn Tất Trường S trực tiếp nuôi.

- Giao cháu Nguyễn Hương Giang, sinh ngày 22/01/2015 cho chị Nguyễn Thị Mai H trực tiếp nuôi.

Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản và nhà ở: Chị H và anh S xác nhận không có, không yêu cầuToà án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí:

- Chị Nguyễn Thị Mai H  phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị H đã nộp số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình, Hà Nội, theo biên lai thu số AB/2015/07743 ngày 19/10/2017. Nay chuyển thành án phí.

- Anh Nguyễn Tất Trường S phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn phúc thẩm. Xác nhận anh S đã nộp số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình, Hà Nội, theo biên lai thu số AB/2015/08045 ngày 06/02/2018. Nay chuyển thành án phí.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2018/HNGĐ-PT ngày 17/05/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:73/2018/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về