Bản án 73/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUỴỆN B, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 73/2017/HSST NGÀY 28/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 28 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 71/2017/HSST ngày 14/11/2017, đối với bị cáo:

Đn Thượng Th (Tên gọi khác: không); sinh năm 1972, tại B, Quảng Bình; nơi ĐKNKTT và chổ ở hiện nay: Thôn B, xã Ph, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: lớp 3/12; con ông Đoàn Thượng T và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Ngô Thị T, sinh năm 1981(đã ly hôn); con có 02 đứa (lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2002); Tiền án: 03 tiền án: Tại Bản án số 13/2005/HSST ngày 16/12/2005 bị Toà án huyện B xử phạt 42 tháng tù về tội „Trộm cắp tài sản”; bản án số 46/2009/HSST ngày 08/9/2009 bị Toà án huyện B xử phạt 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; bản án số 36/2012/HSST ngày 21/9/2012 bị Toà án nhân dân huyện L xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/9/2017 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện B. Theo lệnh trích xuất, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Chị Phan Thị T, sinh năm 1983; trú tại: Thôn 8, xã BT, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 17/7/2017, Đoàn Thượng Th đi bộ đến rừng thông khu vực Khe Nước thuộc thôn T, xã T thì thấy xe mô tô Honda Ware Alpha BKS 73N3-7464 của chị Phan Thị T ở thôn 8, BT đang dựng ở mép đường đất đỏ để vào rừng thu lượm cây, khoá xe đang cắm ở ổ nên nảy sinh ý định lấy trộm. Th bật chìa khoá xe, ngồi lên nổ máy điều khiển xe đến Km 678 +600 m Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn Tiền V, xã N, huyện Q thì gây tai nạn, Th được người dân đưa vào bệnh viện Q cấp cứu, sau đó chuyển vào bệnh viện Việt Nam – Cu Ba điều trị. Hai ngày sau Th bỏ trốn khỏi bệnh viện. Hội đồng định giá tài sản huyện B kết luận xe mô tô  Hon da Ware Alpha BKS 73N3-7464 mà Th chiếm đoạt của chị T, trị giá 3.000.000 đồng.

Vật chứng vụ án: Thu giữ và xử lý trả lại cho bị hại Phan Thị T 01 xe mô tô Hon da Ware Alpha BKS 73N3-7464.

Trách nhiệm dân sự: Đoàn Thượng Th thoả thuận Bồi thường số tiền 1.510.000 đồng cho bị hại Phan Thị T tiền sửa xe bị hỏng do tai nạn nhưng tại phiên tòa bị hại không yêu cầu bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 75/THQCT-KSĐT ngày 14/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Đoàn Thượng Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo. Đề nghị áp dụng Điểm c  khoản 2 Điều 138; các điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 xử phạt bị cáo Đoàn Thượng Th từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Bị cáo Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của Pháp luật.

Ý kiến của bị cáo: Thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đoàn Thượng Th đã thừa nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời trình bày của người bị hại, người làm chứng cũng như các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án và được xét hỏi tranh luận tại phiên toà. Do đó có cơ sở xác định xuất phát từ động cơ hám lợi và ý thức coi thường pháp luật khoảng 09 giờ ngày 17/7/2017 tại khu vực Khe Nước thuộc thôn T, xã T, Đoàn Thượng Th đã lén lút lấy trộm xe mô tô Honda Ware Alpha BKS 73N3-7464 của chị Phan Thị T trị giá 3.000.000 đồng đưa đi tiêu thụ thì gây tai nạn giao thông đến ngày 19/9/2017 thì bị bắt. Như vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Đoàn Thượng Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự. Bị cáo có 03 tiền án chưa được xoá án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm bởi vậy cần phải xét xử bị cáo theo khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự. Đúng như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện B và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Xét quá trình nhân thân, hành vi, mức độ và hậu quả phạm tội của bị cáo gây ra trong vụ án này thấy rằng:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng không nhưng xâm phạm về quyền sở hữu tài sản của người bị hại mà còn gây tác động xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội gây tâm lý hoang mang trong nhân dân.

Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị tòa án đưa ra xét xữ: năm 2005 bị Toà án huyện B xử phạt 42 tháng tù về tội „Trộm cắp tài sản”, năm 2009 bị Toà án huyện B xử phạt 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và năm 2012 bị Toà án nhân dân huyện L xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đáng lẽ bị cáo phải lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân để tích cực rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, sẵn sàng phạm tội khi có cơ hội, tái phạm nguy hiểm vì vậy cần xử phạt nghiêm khắc và cần thiết cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định nhằm có đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét cho bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay đã luôn thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải. Đây là T tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại chị Phan Thị T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 1.510.000đồng nữa, nên HĐXX không xem xét.

Về án phí: Bị cáo Đoàn Thượng Th phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Thượng Th phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1, Điều 46 Bộ luật hình sự 1999.Xử phạt bị cáo Đoàn Thượng Th 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/9/2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo với thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án 28 tháng 11 năm 2017.

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Đoàn Thượng Th phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

Án xử sơ thẩm bị cáo, bị hại có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/11/2017) để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

410
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:73/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về