Bản án 72/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TANG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Cẩm Lệ mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 70/2020/TLHS-ST ngày 15 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2020/QĐXXST-HS ngày 27/10/2020 đối với bị cáo:

Bị cáo: Phan Văn T, sinh ngày 16/9/1995 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: K225/25 đường P, phường P, quận H, TP Đà Nẵng; Chỗ ở: 100/3 đường T, phường H, quận C, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Mạnh H và bà Trần Thị B, có vợ là Đặng Trần Hồng Đ, có 02 con.

Tiền án: Ngày 15/3/2016 bị Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ xử phạt 12 tháng tù về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” (Ngày 02/6/2020 mới thi hành phần án phí).

Nhân thân: Ngày 15/7/2020, bị Công an quận Cẩm Lệ xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (phát hiện sau khi bị bắt quả tang).

Bị cáo bị bắt giam ngày 19/3/2020, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1993; Trú tại: Tổ 63, phường H, quận C, TP Đà Nẵng. Vắng mặt (hiện không có mặt tại địa phương) - Bà Đặng Trần Hồng Đ, sinh ngày 19/6/1997; Nơi cư trú: 100/3 đường T, phường H, quận C, TP Đà Nẵng. Có mặt

Người làm chứng: Bà Sử Ngọc Trà M, sinh ngày 08/4/1997; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố 1, phường A, thị xã Q, tỉnh Quảng Trị; Chỗ ở: Số 91 đường Nguyễn Đình T, phường H, quận C, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/3/2020, Công an phường Hòa An, phối hợp với Đội CSĐTTP về ma túy Công an quận Cẩm Lệ, tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ tại địa chỉ 100/3 đường T, tổ 2, phường H, quận C, TP Đà Nẵng phát hiện Phan Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại phòng trọ còn có Đặng Trần Hồng Đ, Sử Ngọc Trà M, Nguyễn Văn P và 02 cháu nhỏ là con của T và Đ. Tại gác lửng phát hiện phía trên tủ nhựa màu hồng có một cái đĩa sứ, trên đĩa có một ống nhựa, phía trong có cuộn tờ tiền, 01 thẻ ATM; trên bề mặt của đĩa sứ có chất bột màu trắng. Tùng khai đây là ma túy hàng khay của T và P sử dụng còn lại. Tiếp tục kiểm tra phát hiện tại bờ tường phía sau tủ nhựa màu hồng có một ô thông gió, thông ra khe hở giữa hai bờ tường, tiến hành kiểm tra dưới khe thì phát hiện nhiều đồ vật, tài sản:

Tang vật thu giữ:

- Tại gác lửng phòng trọ: Thu giữ chất bột màu trắng trên đĩa sứ cho vào bao nilon kích thước (10,5 x 6,5)cm niêm phong ký hiệu HA01; 01 ống nhựa và thẻ ATM niêm phong ký hiệu HA02 và HA03.

- Tại khe thông gió thu giữ:

+ 01 (một) gói nilon, kích thước khoảng (14x8)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, được niêm phong ký hiệu HA04;

+ 01 (một) gói nilon, kích thước khoảng (7x4)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng được niêm phong ký hiệu HA05;

+ 01 (một) gói nilon, kích thước khoảng (7x4)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong ký hiệu HA06;

+ 01 (một) gói nilon, kích thước khoảng (3,5x3)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng, niêm phong ký hiệu HA07;

+ 01 (một) gói nilon, kích thước khoảng (8,5x5) cm, bên trong chứa một số viên nén nhưng bị bể thành nhiều mảnh, không xác định hình dạng ban đầu. Tiến hành niên phong ký hiệu HA08;

+ 02 gói nilon bằng nhau, kích thước khoảng (12x60)cm, bên trong gói thứ nhất có 05 bao nilon chưa qua sử dụng, gói thứ 2 chứa 40 bao nilon chưa qua sử dụng, tiến hành niêm phong ký hiệu HA09;

+ 01 (một) bình thủy tinh, nắp nhựa màu đen, có hai lỗi tròn, một lỗ gắn một nỏ thủy tinh, niêm phong ký hiệu HA13;

+ 01 (một) cân điện tử, nhãn hiệu Pocket Scale.

- Tại phòng dưới thư giữ:

+ Thu tại túi áo khoác của T treo ở móc áo có 01 (một) gói nilon màu cam, kích thước khoảng (3,5x3)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, tiến hành niêm phong ký hiệu HA10;

+ Thu giữ tại túi quần Jean của T treo trên giá có 01 (một) gói nilon, kích thước khoảng (2,5x2,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, niêm phong ký hiệu HA11;

+ Thu giữ tại nền nhà 04 cặp túi nilon, chưa qua sử dụng, miệng dinh vào nhau, niêm phong ký hiệu HA12;

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone, gắn sim 0905.776.667 của Đặng Trần Hồng Đào;

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone, gắn sim 089989930 và 01 điện thoại di động Mastel gắn sim 0935534790 của Phan Văn Tùng;

+ 01 Điện thoại di động hiệu Iphone, gắn sim 0905.899.226 của Sử Ngọc Trà My;

+ 01 điện thoại di động hiệu Vertu, gắn sim 0905.787.116 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng của Nguyễn Văn P.

Tại Bản kết luận giám định số 97 ngày 03/4/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an TP Đà Nẵng xác định:

Chất bột màu trắng trong các niêm phong, ký hiệu HA01, HA05, HA06, HA07, HA11 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng các mẫu lần lượt là: HA01: 0,769 gam; HA05: 0,541 gam; HA06: 0,281 gam; HA07: 0,683 gam; HA11: 0,227 gam. Tổng cộng khối lượng các mẫu trên là: 2,501 gam.

Tinh thể màu trắng niêm phong trong các gói niêm phong mẫu ký hiệu HA04, HA10 là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu HA04 là 25,799 gam, HA10 là 0,055 gam.

Viên nén màu cam niêm phong ký hiệu HA08 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng là 1,648 gam.

Qúa trình điều tra Phan Văn T khai nhận vào chiều ngày 18/3/2020, T đến đường Lý Thái Tông – Đà Nẵng gặp đối tượng tên “Ki” mua 300.000 đồng ma túy đá và 1.000.000 đồng ma túy dạng Khay (Ketamine) để sử dụng. Sau đó, T điều khiển xe mô tô đến đường Thái Thị Bôi – Đà Nẵng chở P và M đến đường Tôn Đản để P chuộc xe máy nhưng tiệm cầm đồ đóng cửa, nên T chở P và M đến phòng trọ của T. Đến nơi T vào phòng còn P mượn xe mô tô của T chở M đi ăn. Đến khoảng 19 giờ ngày 18/3/2020, P và M về lại phòng trọ của T, P lên gác lửng gặp Tùng. P lấy ra 01 gói ma túy kích thước khoảng (14 x 8)cm đưa cho T sử dụng nhưng Tùng không đồng ý do nghĩ ma túy của P kém chất lượng. Nghe vậy, P cất gói ma túy vào tủ nhựa màu hồng tại phòng trọ thì T đồng ý sử dụng nơi ở của mình để P cất giấu ma túy. Sau đó, P mượn xe mô tô của T để chở M đi chơi, T ở lại phòng trọ lấy gói ma túy đá mà T đã mua ra sử dụng, phần còn lại T cất giấu vào túi áo khoác. Đến 20 giờ cùng ngày, P và M về lại phòng trọ của T, P lên gác lửng cùng T tiếp tục sử dụng ma túy đá của T rồi mọi người đi ngủ. Đến khi có lực lượng Công an kiểm tra thì T chạy lên gác lửng mở tủ nhựa lấy gói nilon kích thước (14x8)cm chứa ma túy đem vứt qua ô thông gió. Sau đó T mới xuống mở cửa cho cơ quan Công an vào kiểm tra, quá trình kiểm tra phát hiện bắt quả tang Phan Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữa các tang, tài vật nêu trên.

Tại Bản cáo trạng số 56/2020/CT-VKSCL ngày 26/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Phan Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Tại phiên tòa ngày 29/9/2020 Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ để điều tra bổ sung làm rõ hành vi của đối tượng Nguyễn Văn P để xử lý trong cùng vụ án. Xác định khối lượng ma túy mà Tùng tàng trữ và làm rõ có hay không hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của Phú. Nhưng Viện kiểm sát không chấp nhận mà giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo Phan Văn T.

Tại phiên tòa bị cáo Phan Văn T khai nhận: Đối với số ma túy đá và ma túy hàng Khay (ma túy Ketamine) thu giữa tại túi áo khoác và túi quần Jaen (mẫu ký hiệu HA10, HA11) là của bị cáo mua của đối tượng tên “Ki” về để sử dụng. Số ma túy thu giữ trên đĩa sứ (mẫu ký hiệu HA01) là của bị cáo và P sử dụng trước đó còn lại. Riêng gói ma túy kích thước khoảng (14x8)cm - mẫu ký hiệu HA04) là của Nguyễn Văn P mang đến phòng trọ đưa cho T sử dụng, nhưng vì nghĩ ma túy của P kém chất lượng nên T không sử dụng. Khi P cất dấu gói ma túy vào tủ nhựa tại phòng trọ của T thì bị cáo T đồng ý sử dụng chỗ ở của mình cho P cất giấu gói ma túy. Đối với các bao nilon và 01 cân điện tử và 04 gói ma túy (ký hiệu HA05, HA06, HA07, HA08) thu giữ phía sau ô thông gió theo T nghĩ là của P mang đến bỏ trong bao nilon màu đen và vất ra ô thông gió trước khi Công an vào kiểm tra. Bị cáo Phan Văn T thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự đối với toàn bộ số ma túy thu giữ khi bắt quả tang bị cáo là đúng tội, không oan. Bị cáo đã thấy sai trái, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, xin Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình, xã hội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phan Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự, như Bản cáo trạng số 56/2020/CT- VKSCL ngày 26/8/202 đã truy tố bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Văn T mức án từ 06 năm đến 07 năm tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao gói; 01 đĩa sứ, 01 bình thủy tinh xét không còn giá trị sử dụng đề nghị tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 02 điện thoại di động thu giữ của T đề nghị tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

- Đối với 02 điện thoại thu giữ của Nguyễn Văn P, hiện P đã bỏ đi khỏi địa phương, cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữa 02 điện thoại thu giữ của Phú để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

- Đối với các bao nilon chưa qua sử dụng và 01 cân điện tử, quá trình điều tra chưa xác định được của những ai, có liên quan như thế nào đến việc phạm tội. Do đó, cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

- Đối với các điện thoại thu giữ của Đặng Trần Hồng Đào và Sử Ngọc Tra My, do không liên quan đến vụ án, cơ quan điều tra đã trả lại cho Đào và My là có căn cứ nên không đề cập xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã tiến hành đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[2.1] Tại phiên tòa bị cáo Phan Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ và kết quả giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, được thu thập đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/3/2020, Đội cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy Công an quận Cẩm Lệ phối hợp với Công an phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ tại kiệt 100/3 đường T, phường H, quận C, TP Đà Nẵng, phát hiện bắt quả tang Phan Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại phòng trọ và phía sau ô thông gió của phòng trọ 25,854 gam ma túy loại Mathamphetamine; 1,648 gam ma túy loại MDMA; 2,501 gam ma túy loại Katamine và một số tang tài vật khác.

[2.2] Qúa trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Phan Văn T khai nhận gói ma túy thu giữa tại túi áo khoác và túi quần Jaen và số ma túy còn lại trên đĩa sứ (mẫu ký hiệu HA10, HA11, HA01) là của bị cáo. Nguồn gốc số ma túy này là của bị cáo mua “Ki” với giá 1.300.000 đồng về để sử dụng. Riêng gói ma túy kích thước khoảng (14x8)cm (gói lớn nhất - mẫu ký hiệu HA 04) là của Nguyễn Văn P mang đến phòng trọ của T, khi thấy P cất dấu gói ma túy này vào tủ nhựa màu hồng tại phòng trọ của T. Mặc dù biết rõ đây là chất ma túy nhưng bị cáo T vẫn đồng ý sử dụng chỗ ở do mình quản lý để P cất dấu ma túy. Đối với 04 gói ma túy còn lại thu giữ tại ô thông gió (các gói có mẫu ký hiệu HA05, HA06, HA07, HA08) theo T khai số ma túy này là của P mang đến bỏ trong túi nilong màu đen, P đã vất qua ô thông gió trước khi Công an vào kiểm tra. Bị cáo xác định nếu P nói rõ cho bị cáo biết P đang cất dấu các gói ma túy này thì bị cáo cũng đồng ý để P cất dấu tại phòng trọ của mình. Bị cáo cũng xác nhận chỉ có thể vất ma túy từ phòng trọ của của bị cáo ra ô thông gió, còn ở các địa điểm khác không thể vất được vào ô thông gió. Do đó, dù nguồn gốc số ma túy thu giữ là của bị cáo hay của người khác, nhưng bị cáo đã đồng ý sử dụng phòng trọ là địa điểm do mình quản lý để người khác cất dấu ma túy thì bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số ma túy thu giữ. Mặt khác tại phiên tòa bị cáo T cũng thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự đối với toàn bộ số ma túy thu giữ tại phòng trọ và phía sau ô thông gió là đúng tội, không oan.

[2.3] Như vậy, với hành vi tàng trữ trái phép các chất ma túy để sử dụng và đồng ý sử dụng phòng trọ là địa điểm do mình quản lý để người khác cất dấu ma túy với tổng khối lượng các chất ma túy gồm: 25,854 gam ma túy loại Mathamphetamine; 1,648 gam ma túy loại MDMA; 2,501 gam ma túy loại Katamine, của bị cáo Phan Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “Có từ 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng của các chất đó tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này” quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như Bản cáo trạng số 56/2020/CT- VKSCL ngày 26/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ đã truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Đây là vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên biết rõ tác hại của các chất ma túy đối với cộng đồng, xã hội cũng như sức khỏe, tinh thần của người sử dụng. Nhưng bị cáo vẫn sử dụng địa điểm do mình quản lý để cất dấu ma túy. Tổng khối lượng các chất ma túy mà bị cáo tàng trữ có khối lượng tương đối lớn (gồm 25,854 gam ma túy loại Mathamphetamine; 2,501 gam ma túy loại Katamine và 1,648 gam MDMA). Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Do đó, đối với bị cáo cần xử phạt nghiêm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo có 01 tiền án, năm 2016 bị Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ xử phạt 12 tháng tù về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” chưa được xóa án tịch (do đến 02/6/2020 mới thi hành phần án phí), lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do đó, đối với bị cáo cần xử phạt nghiêm, cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn như mức án mà Viện kiểm sát đã đề nghị, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

[5] Về các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, 02 con còn nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Do đó cần áp dụng điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao gói (bì niêm phong mẫu giám định và toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định – kết luận giám định số 97/GĐ-MT ngày 03/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng); 01 đĩa sứ, 01 bình thủy tinh, nắp nhựa màu đen, có hai lỗi tròn, một lỗ gắn nỏ thủy tinh; 01 ống nhựa, xét những vật chứng này không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 02 điện thoại di động thu giữ của T không liên quan đến vụ án, trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

- Đối với 01 thẻ AMT không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo T.

- Đối với 02 điện thoại thu giữ của Nguyễn Văn P, hiện Phú đã bỏ đi khỏi địa phương, cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữa 02 điện thoại thu giữ của P để tiếp tục điều tra, xử lý sau là có cơ sở.

- Đối với các bao nilon chưa qua sử dụng và 01 cân điện tử, quá trình điều tra chưa xác định được của những ai, có liên quan như thế nào đến việc phạm tội. Do đó, cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để tiếp tục điều tra, xử lý sau là có cơ sở.

- Đối với các điện thoại thu giữ của Đặng Trần Hồng Đ và Sử Ngọc Tra M, do không liên quan đến vụ án, cơ quan điều tra đã trả lại cho Đ và M là có căn cứ.

[6] Đối với các đối tượng trong vụ án:

Đối với Nguyễn Văn P: Qúa trình điều tra ngay từ khi bị bắt quả tang cho đến tại phiên tòa hôm nay, T khai gói ma túy đá kích thước khoảng (14x8)cm (mẫu hý hiệu HA04 -là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng mẫu là 25,799 gam) và 04 gói ma túy thu giữ tại ô thông gió (các mẫu ký hiệu HA05, HA06, HA07, HA08) là của Nguyễn Văn P mang đến phòng trọ của T nhưng T vẫn đồng ý để P cất dấu tại phòng trọ của mình. Tại thời điểm Cơ quan Công an bắt quả tang trong phòng trọ có mặt 04 người gồm bị cáo T, Đặng Trần Hồng Đ, Nguyễn Văn P và Sử Ngọc Trà M. Cơ quan điều tra cũng đã làm việc được với Nguyễn Văn P, tại biên bản phạm tội quả tang và lời khai ban đầu thì Nguyễn Văn P không thừa nhận số ma túy thu giữ tại phòng trọ của T và phía sau ô thông gió là của P. Mặc dù lời khai của T và P có mâu thuẫn nhưng cơ quan điều tra chưa đấu tranh làm rõ, chưa cho T và P đối chất với nhau để làm rõ hành vi của Nguyễn Văn P. Ngoài ra, T còn khai P đã nhiều lần mang ma túy, dụng cụ sử dụng ma túy đến phòng trọ rủ T sử dụng. Hiện Nguyễn Văn P đã bỏ đi khỏi địa phương. Do đó, kiến nghị cơ quan điều tra Công an quận Câm Lệ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ hành vi, mức độ liên quan của Nguyễn Văn P đối với các gói ma túy có mẫu ký hiệu HA04, HA 05, HA06, HA07, HA08 thu giữ tại phòng trọ và phía sau ô thông gió nhà trọ của T nêu trên và làm rõ có hay không hành vi tổ chức sủ dụng trái phép chất ma túy của P.

Đối với Đặng Trần Hồng Đ và Sử Ngọc Trà M không biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy của T, nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý Đ và M là có cơ sở.

Đối với đối tượng tên “Ki” là người bán ma túy cho Phan Văn T, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của T đã bị Cơ quan điều tra đã xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là có cơ sở.

[8] Về án phí: Bị cáo Phan Văn T phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm n khoản 2 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Phan Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Phan Văn T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam, ngày 19/3/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015: Tuyên.

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng, gồm:

+ 01 (một) bì niêm phong mẫu giám định và toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định (Kết luận giám định số 97/GĐ-MT, ngày 03/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng) (đây là toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao gói).

+ 01 (một) bình thủy tinh, nắp nhựa màu đen, có hai lỗ tròn, một lỗ gắn nỏ thủy tinh (Niêm phong ký hiệu HA13);

+ 01 (một) ống nhựa (trong gói niêm phong ký hiệu HA02);

+ 01 (một) đĩa sứ (trong gói niêm phòng ký hiệu HA03);

- Trả lại cho bị cáo Phan Văn T 01 điện thoại di động hiệu Masstel, gắn sim 0935.534.790 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone, gắn sim 0899.898.930. Tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án về phần án phí.

- Trả lại cho bị cáo Phan Văn T 01 thẻ ATM (Trong mẫu niêm phong ký hiệu HA02).

(Toàn bộ vật chứng trên hiện Chi Cục thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/9/2020).

3. Về kiến nghị: Kiến nghị cơ quan điều tra Công an quận Câm Lệ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ hành vi, mức độ liên quan của Nguyễn Văn P đối với các gói ma túy có mẫu ký hiệu HA04, HA 05, HA06, HA07, HA08 nêu trên và làm rõ có hay không hành vi tổ chức sủ dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn P.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phan Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niên yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về