Bản án 72/2020/HS-PT ngày 04/06/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 72/2020/HS-PT NGÀY 04/06/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 04 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2020/HSPT ngày 02 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị D và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 81/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh.

- Các bị cáo kháng cáo:

1. Nguyễn Thị D; Tên gọi khác: Không; sinh ngày: 10/5/1971; Nơi cư trú: Tổ 3, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Hữu T và bà: Nghiêm Thị Q; Chồng: Thiều Quang M (đã chết); Con: có 03 lớn sinh năm 1990 nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22/5/2013 bị Công an phường T, thành phố H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh người gây thương tích bằng hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng; Ngày 11/12/2013 bị Công an phường T, thành phố H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc bằng hình thức phạt tiền 2.000.000 đồng; Ngày 31/12/2014 bị Công an phường T, thành phố H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc bằng hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/8/2019, đến ngày 04/9/2019 thì được tại ngoại tại địa phương, có mặt tại phiên tòa.

2. Dương Văn P; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 10/8/1972; Nơi cư trú: Tổ 5, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Dương Văn T (Đã chết) và bà: Bùi Thị B; Vợ: Trương Thị L; Con: có 03 con, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 30/10/2013 bị Công an thành phố H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc bằng hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/8/2019 đến ngày 04/9/2019 thì được tại ngoại tại địa phương, có mặt tại phiên tòa.

3. Võ Thị Kim N; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 10/12/1966; Nơi cư trú: Tổ dân phố 7, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 05/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Võ Tá H và bà: Lê Thị M; Chồng: Trương Hữu C; Con: có ba con, lớn sinh năm 1990, nhỏ sinh năm 1996; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 02/01/2007 bị Công an thị xã Hà Tĩnh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc bằng hình thức phạt tiền 50.000 đồng; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/8/2019 đến ngày 04/9/2019 thì được tại ngoại tại địa phương, có mặt tại phiên tòa.

4. Trần Thị H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 16/10/1973; Nơi cư trú: Tổ dân phố 3, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Hậu P (đã chết) và bà: Nguyễn Thị N; Chồng: Krause Andrzejfranciszek; Con: có hai con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2002; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 18/11/2015 bị Công an phường Bắc Hà, thành phố H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc bằng hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/8/2019 đến ngày 04/9/2019 thì được tại ngoại tại địa phương, có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Thị H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 29/12/1975; Nơi cư trú: Tổ dân phố 7, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Ngọc T và bà: Nguyễn Thị T; Chồng: Nguyễn Tiến Đ; Con: có hai con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2001; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 11/12/2013 bị Công an phường T, thành phố H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc bằng hình thức phạt tiền 2.000.000 đồng; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/8/2019 đến ngày 04/9/2019 thì được tại ngoại tại địa phương, có mặt tại phiên tòa.

Vụ án còn có các bị cáo khác, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 45 P đến 14 giờ 30 P ngày 26/8/2019, tại số nhà 05, ngách 6, ngõ 13 đường H thuộc tổ dân phố 2, phường T, thành phố H. Hoàng Thị H đã chuẩn bị bài tú lơ khơ và gọi điện cho Lê Thị T, Võ Văn H và Lê Quốc T đến đánh bạc cùng các bị cáo khác tại nhà H1 để thu tiền hồ. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, Công an thành phố H phát hiện, bắt quả tang 03 chiếu bạc tại nhà H1, cụ thể: chiếu bạc thứ nhất gồm Lê Thị T, Trần Lê T, Võ Văn H, Mai Thị K và Nguyễn Thị T đánh bạc dưới hình thức đánh bài “Tiến lên miền Nam” được thua mỗi ván từ 50.000 đồng đến 250.000 đồng với số tiền sử dụng đánh bạc 13.890.000 đồng; chiếu bạc thứ hai gồm Lê Quốc T, Dương Văn P, Trần Thị H và Võ Thị T đánh bạc dưới hình thức đánh bài “Tiến lên miền Nam” được thua mỗi ván từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng với số tiền sử dụng đánh bạc là 30.500.000 đồng; chiếu bạc thứ ba gồm Hoàng Thị H, Nguyễn Thị D, Võ Thị Kim N và Nguyễn Thị H đánh bạc dưới hình thức đánh bài “Tiến lên miền Nam” được thua mỗi ván từ 10.000 đồng đến 50.000 đồng với số tiền sử dụng đánh bạc là 45.990.000 đồng.

Với hành vi phạm tội trên, tại bản án số: 81/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh đã Quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự (bị cáo D không áp dụng khoản 2 điều 51 BLHS).

Tuyên bố Nguyễn Thị D, Dương Văn P, Võ Thị Kim N, Trần Thị H, Nguyễn Thị H đều phạm tội “Đánh Bạc”.

Xử phạt: Nguyễn Thị D 07 (bảy) tháng tù, Dương Văn P, Võ Thị Kim N, Trần Thị H, Nguyễn Thị H mỗi bị cáo đều 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù của các bị cáo đều tính từ ngày thi hành án nhưng được trừ thời gian các bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 26/8/2019 đến ngày 04/9/2019.

Ngoài ra án sơ thẩm còn xử phạt đối với bị cáo Hoàng Thị H với hai tội là 15 tháng tù; Các bị cáo Lê Thị T, Lê Quốc T, Võ Thị T, Võ Văn H, Mai Thị K mỗi bị cáo 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Các bị cáo Trần Lê T, Nguyễn Thị T mỗi bị cáo 30.000.000 đồng; Tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định, ngày 28/11/2019 bị cáo Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo; ngày 05/12/2019 bị cáo Dương Văn P có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo; ngày 28/11/2019 bị cáo Võ Thị Kim N, Trần Thị H có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo và xin giảm hình phạt bổ sung.

Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị H, Dương Văn P vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu kháng cáo, các bị cáo Võ Thị Kim N, Trần Thị H rút yêu cầu xin giảm hình phạt bổ sung, các bị cáo khai và đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung của bản án sơ thẩm. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét và cho các bị cáo được hưởng án treo.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Theo lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy hành vi phạm tội của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành của tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Theo đó bản án hình sự sơ thẩm số 81/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh quyết định tuyên bố các bị cáo đều phạm tội “Đánh bạc” là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, do ham mê cờ bạc mà các bị cáo đã bất chấp pháp luật, cùng nhau tụ tập đánh bạc, sát phạt lẫn nhau.

Xét về vai trò của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng:

Các bị cáo đều tham gia với vai trò tích cực, mặc dù chưa có tiền án, tiền sự nhưng về nhân thân các bị cáo cũng đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, nhưng không chịu lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục đánh bạc. Vì vậy, việc án sơ thẩm đã áp dụng các quy định của pháp luật phân hóa vai trò và xử phạt các mức án đối với các bị cáo như vậy là chính xác và nghiêm minh.

Sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo làm đơn kháng cáo và đã nộp cho cấp P thẩm các chứng cứ mới sau: Bị cáo N đã nộp tiền phạt và giấy xác nhận của đồn biên phòng cửa sót là đã cung cấp cho đồn biên phòng bắt giữ hai đối tượng buôn bán pháo; Bị cáo H đã nộp tiền phạt và giấy xác nhận của Công an là đã cung cấp cho Công an bắt giữ một đối tượng mua bán trái phép chất ma túy; Bị cáo D đã nộp tiền phạt, có giấy xác nhận của Công an là đã cung cấp cho Công an bắt giữ một đối tượng mua bán trái phép chất ma túy, bệnh án điều trị ngoại trú; Bị cáo P đã nộp tiền phạt và giấy xác nhận của Công an là đã giúp Công an bắt giữ một đối tượng tàng trữ trái phép chất ma túy và một đối tượng trộm cắp tài sản; Bị cáo Hoàn có giấy xác nhận của Đồn biên phòng cửa khẩu Quốc tế C là đã giúp cho đồn phá hai chuyên án ma túy.

Qua xem xét Hội đồng xét xử cấp P thẩm xét thấy các bị cáo đều cung cấp cho hội đồng xét xử cấp P thẩm tình tiết mới là đã giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm được quy định tại điểm t khoản 1 điều 51 BLHS. Vì vậy, cần áp dụng thêm tình tiết mới này cho các bị cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo cũng đã tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp P thẩm không có cơ sở xem xét cho hưởng án treo như đơn kháng cáo của các bị cáo.

[3] Các bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[2] Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị D, Dương Văn P, Võ Thị Kim N, Trần Thị H, Nguyễn Thị H đều phạm tội “Đánh Bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thị D 07 (bảy) tháng tù, Võ Thị Kim N, Nguyễn Thị H, Dương Văn P, Trần Thị H mỗi bị cáo 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù đều tính từ ngày thi hành án, các bị cáo đều được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 26/8/2019 đến ngày 04/9/2019.

[3] Về án phí: Căn cứ điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 xử buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

664
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HS-PT ngày 04/06/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:72/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về