TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 72/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 16 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 199/2020/TLST- HNGĐ ngày 13/10/2020 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2020/QĐXX- ST ngày 24/11/2020 giữa:
1. Nguyên đơn: Anh Trần Thế V, sinh năm 1989 Địa chỉ: Thôn Đ, xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình.
2. Bị đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1989.
Địa chỉ: Thôn Đ, xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình.
( Anh V có mặt; Chị H vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn, quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Trần Thế V trình bày: Anh V và chị H kết hôn với nhau là tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình ngày 19/9/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống và không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Năm 2018 anh V và chị H đã có đơn xin ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải nhưng trong quá trình hoà giải vợ chồng anh V đã xin rút đơn để về đoàn tụ, trong thời gian về chung sống với nhau vợ chồng anh V lại tiếp tục xảy ra mâu thuẫn. Hiện tại anh V và chị H sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh V đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải giải quyết cho anh V được ly hôn với chị H.
Về con chung: Anh V và chị H không có con chung Về tài sản chung, công nợ: Không có.
Tạị bản tự khai, đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là chị Trần Thị H trình bày: Chị H và anh V kết hôn với nhau là tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình ngày 19/9/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng chịH chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống. Năm 2018 vợ chồng chị H đã có đơn xin ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải nhưng trong quá trình hòa giải vợ chồng chị H đã xin rút đơn để về đoàn tụ, trong thời gian về chung sống với nhau vợ chồng chịH lại tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Nay anh V có đơn xin ly hôn chịH, xác định vợ chồng không thể chung sống được với nhau nên chịH cũng đồng ý ly hôn với anh V. Do điều kiện công việc chị H không về Tòa án để tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa được nên chị H đề nghị Tòa án xét xử vụ án ly hôn giữa anh V và chị H vắng mặt theo quy định của pháp luật.
Về con chung: Chị H và anh V không có con chung.
Về tài sản chung, công nợ: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Bị đơn chị Trần Thị H có hộ khẩu thường trú tại xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình. Theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” giữa anh Trần Thế V và chị Trần Thị H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Thế V và chị Trần Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình. Tại thời điểm kết hôn anh V và chị H đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Đó là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, cả anh V và chị H đều xác định vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống và không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Hiện tại anh V và chị H không chung sống cùng nhau, quan hệ vợ chồng không còn tồn tại trên thực tế, anh V và chịH đều đề nghị Tòa án giải quyết cho anh V và chịH được ly hôn. Như vậy, hôn nhân của anh V và chị H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc thuận tình ly hôn của anh V và chị H là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điều 55 Luật hôn nhân và gia đình xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Trần Thế V và chị Trần Thị H.
[2.2]. Về con chung: Anh V và chị H không có con chung.
[2.3]. Về tài sản chung, công nợ: Không có.
[2.4]. Về án phí: Anh Trần Thế V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[2.5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 55 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5, điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Trần Thế V và chị Trần Thị H.
2/ Về con chung: Không có.
3/ Về tài sản chung, công nợ: Không có.
4/ Về án phí: Anh Trần Thế V phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) anh V đã nộp tại Chi cục thiHnh án dân sự huyện Tiền Hải theo biên lai thu số 0009682 ngày 13/10/2020.
5/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (16/12/2020).
Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 72/2020/HNGĐ-ST ngày 16/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 72/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về