TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 72/2019/HS-PT NGÀY 22/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2019/TLPT-HS, ngày 25/7/2019 đối với bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số số 84/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Trần Đỗ Quốc Đ, sinh năm 1985. Nơi ĐKNKTT và cư trú: Tổ 7, thôn NH, xã LH, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 9/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Con ông Trần Tuấn H (đã chết) và bà Đỗ Thị Ng, sinh năm 1960. Vợ: Nguyễn Thị cẩm T, sinh năm 1993 và chưa có con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2019 đến ngày 29/03/2019 được tại ngoại. Có mặt.
Vụ án còn có các bị hại, người liên quan không có kháng cáo, vụ án không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ do thiếu tiền tiêu xài đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Bị cáo Đ đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại địa bàn huyện Đức Trọng và hành vi cướp giật tài sản tại địa bàn huyện Đơn Dương cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Vào khoảng 10 giờ ngày 04/12/2018, Bị cáo Đ điều khiển xe máy biển kiểm soát 60X3-4431 đến tiệm thiết bị điện của chị Dương Thị Ngọc để mua đồ. Bị cáo Đ lợi dụng sơ hở mất cảnh giác của chị Ngọc khi bán hàng đã lén lút lấy trộm chiếc điện thoại di động Samsung J7 Pro, sau đó đem bán tại tiệm điện thoại di động Vĩnh Hào ở thị trấn Liên Nghĩa được số tiền 2.600.000 đồng.
Vụ thứ hai: Vào khoảng 15 giờ ngày 06/12/2018, Bị cáo Đ điều khiển xe máy biển kiểm soát 60X3-4431 đến tiệm bán giấy dán tường của chị Lữ Thị Quỳnh Liên để mua đồ. Bị cáo Đ lợi dụng sơ hở mất cảnh giác của chị Liên khi bán hàng đã lén lút lấy trộm chiếc điện thoại di động Iphone 7plus màu đỏ của chị Liên để trên bàn sau đó tẩu thoát và đem bán tại tiệm điện thoại di động Cẩm Đào ở thị trấn Liên Nghĩa được số tiền 3.200.000 đồng.
Tại kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐĐG ngày 15/01/2019 của Hội đồng định giá đã xác định 01 chiếc điện thoại di động Samsung J7 Pro trị giá là 3.000.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus trị giá là 11.000.000 đồng.
Vụ thứ ba: Khoảng 16 giờ ngày 24/12/2018, Bị cáo Đ một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 60X3-4431 đi từ Phi Nôm, Hiệp Thạnh, Đức Trọng theo Quốc Lộ 27 về hướng Thạnh Mỹ, huyện Đơn Dương. Khi tới khu vực Suối Thông, Đạ Ròn, huyện Đơn Dương thì phát hiện chị Nguyễn Thị Út Tâm đang chạy xe máy có để điện thoại di động hiệu OPPO A3S màu đỏ ở túi quần sau bên trái nên bị cáo Đ nảy sinh ý định chiếm đoạt. Bị cáo Đ đi theo sau, khi đến đoạn đường vắng người tại Suối Thông, Bị cáo Đ tăng tốc và áp sát rồi dùng tay phải giật chiếc điện thoại trên của chị Út Tâm và tăng ga tẩu thoát. Sau đó bị cáo Đ đem bán chiếc điện thoại trên tại cửa hàng ĐTDĐ Cẩm Đào ở thị trấn Liên Nghĩa được số tiền 1.200.000 đồng.
Tại kết luận định giá tài sản số 04/2019/BB/HĐĐGTS ngày 15/01/2019 của Hội đồng định giá đã xác định điện thoại di động hiệu OPPO A3S trị giá là 3.400.000 đồng.
Ngoài ra bị cáo Đ còn khai nhận thực hiện thêm một vụ cướp giật tài sản vào thời gian khoảng tháng 10/2018 tại khu vực đường nhựa gần hàng rào cảng hàng không Liên Khương thuộc Lô 90 thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng. Bị cáo Đ phát hiện 01 phụ nữ điều khiển xe máy (bị cáo không nhớ rõ đặc điểm người và phương tiện) đi cùng chiều phía trước có để điện thoại Samsung sau túi quần, Đ áp sát giật điện thoại và tẩu thoát, sau đó bán được 900.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Trọng đã tiến hành xác minh vụ việc trên. Tuy nhiên, tại thời gian trên không có ai đến cơ quan Công an trình báo, vì vậy tách ra khi nào xác định được người bị hại sẽ điều tra làm rõ và xử lý sau.
Về vật chứng: Đối với 03 máy điện thoại di động mà bị cáo Đ chiếm đoạt gồm 01 điện thoại di động hiệu OPPO A3S, 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tuy nhiên không thu hồi được.
Cơ quan điều tra đã thu giữ đồ vật, phương tiện gồm: 01 xe máy hiệu Yamaha Mio Ultimo màu đen, biển kiểm soát 60X3-4431 số máy 007023, số khung 007023 kèm đăng ký xe mang tên Nguyễn Đình Quang, ngụ tại khu 15, Long Đức, Long Thành, Đồng Nai. Xe máy trên bị cáo Đ khai nhận mượn của em ruột tên Trần Đỗ Thảo My, sinh năm 1993, trú tại: Thôn Nghĩa Hiệp, xã Liên Hiệp, huyện Đức Trọng để đi làm. Sau đó bị cáo Đ sử dụng làm phương tiện gây án. Qua làm việc với Trần Đỗ Thảo My xác định xe máy biển kiểm soát 60X3-4431 là do My mua tại cửa hàng xe máy cũ (không nhớ tên và địa chỉ) ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vào năm 2015 khi đó My đang làm công nhân ở thành phố Biên Hòa và My chưa làm thủ tục sang tên theo quy định. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Trọng đã có công văn ủy thác điều tra cho cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Long Thành, Đồng Nai xác định Nguyễn Đình Quang là chủ sở hữu xe máy biển kiểm soát 60X3-4431. Tuy nhiên đến năm 2008 Quang đã bán xe máy trên đi cho một người khác (không nhớ tên, tuổi địa chỉ) và không làm thủ tục sang tên đổi chủ. Vì vậy cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Trọng chưa có căn cứ xử lý nên tiếp tục tạm giữ và tách riêng ra xử lý sau.
Về vật chứng của vụ án: 01 mũ bảo hiểm màu trắng đã qua sử dụng, 01 áo thun màu cam đã qua sử dụng, 01 áo khoác màu xanh lá đã qua sử dụng, 01 đôi dép nam màu đen đã qua sử dụng. Các vật chứng này hiện đã bàn giao Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Trọng chờ xử lý.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ đã bồi thường cho các bị hại Dương Thị Ngọc số tiền 3.000.000 đồng, bồi thường cho bị hại Lữ Thị Quỳnh Liên số tiền 20.000.000 đồng, bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Út Tâm số tiền 4.200.000 đồng. Các bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Tại bản Cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 14/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng truy tố bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.
Tại Bản án số 84/2019/HS-ST ngày 18/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng đã xử;
Tuyên bố bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Cướp giật tài sản”
Áp dụng vào khoản 1 Điều 173; điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 55 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 03 (Ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ/tạm giam từ ngày 15/01/2019 đến ngày 29/03/2019.
Bản án còn xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 25/6/2019 bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đ giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm cho bị cáo 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ do thiếu tiền tiêu xài nên đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của bị hại để thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản đó là lén lút lấy trộm của chị Dương Thị Ngọc 01 chiếc điện thoại di động Samsung J7 Pro có giá trị 3.000.000 đồng và lén lút lấy trộm của chị Lữ Thị Quỳnh Liên 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7plus màu đỏ có giá trị là 11.000.000 đồng.
Ngoài ra, bị cáo dùng thủ đoạn nguy hiểm để cướp giật tài sản mà có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại đó là bị cáo dùng xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản là 01 điện thoại di động hiệu OPPO A3S của chị Nguyễn Thị Út Tâm trong khi chị Út Tâm đang chạy xe máy.
Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo, lời khai của các bị hại, kết luận định giá; vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ phạm các tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và tội “Cướp giật tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Đ xin giảm nhẹ hình phạt: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định và đúng quy định nên được xem xét.
Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật, hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để tuyên phạt bị cáo với mức án như trên là phù hợp.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ mới là gia đình có công với cách mạng; các bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo; vợ bị cáo đang mang thai; bị cáo là lao động chính trong gia đình, nên áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt đối với tội “Cướp giật tài sản”.
[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ, sửa bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Cướp giật tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ 27 (Hai mươi bảy) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự 2015. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 39 (Ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ/tạm giam từ ngày 15/01/2019 đến ngày 29/03/2019.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo Trần Đỗ Quốc Đ không phải chịu phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 72/2019/HS-PT ngày 22/08/2019 về tội trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản
Số hiệu: | 72/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về