TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 72/2019/HS-PT NGÀY 18/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 152/2019/TLPT-HS ngày 19 tháng 09 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Đức L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2019/HS-ST ngày 07/08/2019 của Tòa án nhân huyện TT, tỉnh Bắc Ninh.
* Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Đức L, sinh năm 1995 Trú tại: Xóm H, xã MĐ, huyện TT, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị Hg, sinh năm 1967; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án Đ tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 30 ngày 30/01/2019 Nguyễn Đức L đi ngang qua nhà anh Nguyễn Đức Đ, sinh năm 1998 ở cùng xóm với L. Thấy trong sân có dựng 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Jupiter chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa không có người trông giữ. Quan sát thấy điều kiện thuận lợi, L nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe trên bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. L đi vào sân và dắt xe mô tô ra ngoài. Khi dắt xe qua cổng nhà anh Đ khoảng 10m, L ngồi lên xe mở khóa điện và điều khiển xe đi đến nhà Đinh Văn Bằng ở cùng thôn (là bạn của L). L bảo Bằng “Mày mang xe ra quán Internet chơi qua đêm, có gì tao nhắn tin qua Facebook” và mượn Bằng điện thoại Sam sung A5 để khi về nhà L nhắn tin cho Bằng. Bằng đồng ý đưa điện thoại cho L mượn. Sau đó, Bằng đi chiếc xe mô tô L vừa đưa đi ra quán Internet ở thị trấn Hồ chơi. Còn L đi về nhà lấy xe đạp và đi đến quán Internet ở đầu xóm Chợ, xã Mão Điền, huyện TT chơi điện tử. Tại quán Internet, L nhắn tin cho Bằng “đến nơi chưa, nếu chơi điện tử thì ở quán ngủ sớm đi, mai mang xe đi bán”. Lúc này, Bằng biết chiếc xe L đưa là xe L trộm cắp Đ. Một lúc sau, L nhắn tin cho Bằng bảo “Cất xe đi, nhanh; cất xe cho kỹ vào, mang gửi đâu cũng Đ không nhắn tin nữa”. Bằng nhắn lại hỏi “gửi đâu Đ”, L nhắn lại “đi sang nhà gì mày luôn đi”. Bằng hiểu ý là mang xe L vừa trộm cắp Đ đi cất giấu. Bản thân Bằng khi biết chiếc xe trên do L trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý mang xe đi cất giấu vì nghĩ rằng ngày hôm sau L bán Đ xe sẽ trả Bảng số tiền 30.000.000đ mà L vay của Bằng. Sau đó, Bằng đi chiếc xe mô tô trên đến nhà dì ruột là bà Vũ Thị Vóc ở thôn Trúc Ô, xã Mộ Đạo, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh để giấu xe ở đó.
Đến 20 giờ 20 phút cùng ngày, anh Đ phát hiện chiếc xe đã bị mất nên đã tới Công an xã Mão Điền, huyện TT, tỉnh Bắc Ninh trình báo về việc bị trộm cắp tài sản. Nghi ngờ L là người lấy xe nên gia đình anh Đ đã tìm tới quán Internet nơi L đang chơi game để hỏi L. Ban đầu, L không nhận hành vi trộm cắp xe mô tô của gia đình ông. Khi ông Hách yêu cầu L đưa điện thoại cho anh Nguyễn Đức Diễn là con trai của ông kiểm tra. Chỉ khi ông Hách nói đã báo công an thì L mới nhận là người lấy trộm chiếc xe mô tô trên của anh Đ. Sau đó, ông Hách nhờ bà Vũ Thị Gấm là mẹ của Bằng đưa đến nhà bà Vóc để lấy xe về. Khi đến nhà bà Vóc, ông Hách gặp Bằng đang ở đó nên yêu cầu Bằng mang xe mô tô mà L nhờ cất giấu để trả cho ông Hách. Đến ngày 12/02/2019, anh Đ đã mang chiếc xe mô tô trên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TT, tỉnh Bắc Ninh giao nộp để phục vụ quá trình điều tra.
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 05 ngày 20/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TT kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Jupiter, biển kiểm soát 99F1 - 411.87 tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá là 24.000.000 đồng. Ngày 20/02/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện TT đã trả lại cho anh Nguyễn Đức Đ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Jupiter, biển kiểm soát 99F1 - 411.87. Nay, anh Đ không yêu cầu L phải bồi thường gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Với nội dung trên, Bản án sơ thẩm số 39/2019/HSST ngày 07/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh Bắc Ninh đã tuyên bố Nguyễn Đức L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Đức L 10 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/8/2019 bị cáo Nguyễn Đức L kháng cáo xin Đ hưởng án treo. Tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã xét xử. Bị cáo trình bày: hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TT đã truy tố. Về tội danh và mức hình phạt như bản án của Tòa án nhân dân huyện TT đã tuyên đối với bị cáo là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, do gia đình bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn. Bố bị cáo bị bệnh thần kinh, mẹ đã già mắt kém nên bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình. Bị cáo kháng cáo xin Đ hưởng án treo để Đ chăm sóc cho gia đình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên toà phát biểu ý kiến: Tại bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện TT đã đánh giá đầy đủ, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp Đ thêm tình tiết giảm nhẹ mới để HĐXX xem xét. Do đó, đề nghị giữ nguyên mức án như cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã Đ tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Đức L đã khai nhận về hành vi phạm tội của mình như Bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở để kết luận: khoảng 19 giờ 50 phút, ngày 30/01/2019 tại nhà anh Nguyễn Đức Đ ở xóm Hậu, thôn Mão Điền, huyện TT, tỉnh Bắc Ninh. Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của anh Đ, bị cáo L đã lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Jupiter, biển kiểm soát 99F1-411.87 trị giá 24.000.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện TT đã xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo, HĐXX nhận thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân Đ pháp luật bảo vệ. Gây hoang mang lo lắng cho người có tài sản, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và dư luận xấu trong xã hội. Tuy nhiên, quá trình xét xử sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bản thân bị cáo đã có thời gian phục vụ trong quân đội. Thêm vào đó, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ đã Đ Tòa án cấp sơ thẩm xem xét khi lượng hình đối với bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo tiếp tục Đ bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy gia đình bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, bố mẹ bị cáo đều bị bệnh tật không lao động Đ. Bị cáo là lao động chính trong gia đình. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có đủ điều kiện để áp dụng điều 65 Bộ luật hình sự theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo Đ hưởng án treo để có điều kiện cải tạo tại địa phương.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị HĐXX không xem xét.
Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức L, sửa bản án sơ thẩm.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự. xử phạt bị cáo L 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 20 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã Mão Điền, huyện TT, tỉnh Bắc Ninh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người Đ hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách người Đ hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người Đ hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.
2. Bị cáo L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 72/2019/HS-PT ngày 18/10/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 72/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về