Bản án 72/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 72/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 240/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82a/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 48/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị H; Nơi cư trú: Tổ dân phố Q, phường Đ, quận D, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trí T; Nơi cư trú: Thôn K, xã H1, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện, tại Bản tự khai, nguyên đơn là chị Trần Thị Huyền trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Nguyễn Trí T trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H1, huyện A, thành phố Hải Phòng vào năm 2004. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống tại gia đình anh T ở thôn K, xã H1, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm cãi chửi nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình bố, mẹ hai bên hòa giải nhưng không có kết quả. Từ năm 2012 đến nay, chị đã về cư trú cùng bố, mẹ đẻ chị ở quận D, Hải Phòng, cũng từ đó chị và anh T sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Trí T.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Trí T có hai con chung là Nguyễn Thị Thu H2, sinh ngày 17 tháng 8 năm 2005 và Nguyễn Thị T2, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2012. Hiện tại hai con chung do chị nuôi dưỡng. Chị đề nghị Tòa án giao hai con chung cho chị tiếp tục nuôi dưỡng. Về việc cấp dưỡng nuôi con, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Trí T: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T để anh T đến Toà án nhân dân huyện An Dương giải quyết việc chị Trần Thị H xin ly hôn nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn đã không đến Tòa án ghi bản tự khai; không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo giấy triệu tập, thông báo của Tòa án; vắng mặt tại phiên tòa không có lý do đã vi phạm các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ quy định tại Điều 39 Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Trần Thị H được ly hôn anh Nguyễn Trí T; giao các con chung Nguyễn Thị Thu H2, sinh ngày 17 tháng 8 năm 2005 và Nguyễn Thị T2, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2012 cho chị Trần Thị H nuôi dưỡng cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; không giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con và tài sản. Chị Trần Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Trần Thị H có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh Nguyễn Trí T. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Nguyễn Trí T hiện đang cư trú tại thôn K, xã H1, huyện A, thành phố Hải Phòng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.

[2] Tại phiên tòa, chị Trần Thị H vắng mặt có lời khai đề nghị xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Trí T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 1, khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện An Dương tiến hành xét xử vắng mặt chị Trần Thị H và anh Nguyễn Trí T.

- Về nội dung:

[3] Chị Trần Thị H và anh Nguyễn Trí T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân xã H1, huyện A, thành phố Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 29 tháng 11 năm 2004 nên theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, đây là hôn nhân hợp pháp.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Tuy anh Nguyễn Trí T không đến Tòa án, nên không có quan điểm của anh T về việc chị Trần Thị H xin ly hôn, nhưng căn cứ lời khai của nguyên đơn, căn cứ các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và các chứng cứ do Tòa án thu thập có đủ cơ sở xác định: Quá trình chung sống, chị Trần Thị H anh Nguyễn Trí T đã phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Xét quan hệ hôn nhân của chị Trần Thị H và anh Nguyễn Trí T là không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đề nghị xin được ly hôn của chị Trần Thị H đối với anh Nguyễn Trí T.

[5] Về con chung: Chị Trần Thị H và anh Nguyễn Trí T có hai con chung là Nguyễn Thị Thu H2, sinh ngày 17 tháng 8 năm 2005 và Nguyễn Thị T2, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2012. Xét thấy, hiện tại chị H và anh T đều là lao động tự do nên khả năng và điều kiện nuôi dưỡng con chung như nhau, hai con chung đang do chị H nuôi dưỡng đã ổn định và vẫn phát triển tốt, anh T không có quan điểm về việc nuôi con, chị H có nguyện vọng tha thiết được nuôi dưỡng và chăm sóc hai con, hai con chung đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Để đảm bảo sự ổn định, cần giao hai con chung cho chị H nuôi dưỡng. Khi nào anh T có yêu cầu về vấn đề con chung, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[6] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Nguyễn Trí T không có quan điểm về việc cấp dưỡng nuôi con, nên Tòa án không giải quyết về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, khi nào các đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[7] Về tài sản chung: Chị Trần Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Nguyễn Trí T không có quan điểm về vấn đề tài sản. Nên Tòa án không xem xét, giải quyết về vấn đề tài sản, khi nào các đương sự có yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[8] Về án phí sơ thẩm: Chị Trần Thị H là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị H và anh Nguyễn Trí T được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39; Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 1 và khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 6; điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H được ly hôn anh Nguyễn Trí T.

2. Về con chung: Giao các con chung Nguyễn Thị Thu H2, sinh ngày 17 tháng 8 năm 2005 và Nguyễn Thị T2, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2012 cho chị Trần Thị H nuôi dưỡng cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn chị H đã nộp theo Biên lai thu tiền số 4341 ngày 09 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương. Chị Trần Thị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:72/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về