Bản án 72/2019/HNGĐ-ST ngày 08/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 72/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 08 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 206/TB-TLVA ngày 07 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Hoàng Ngọc N, sinh năm 1968.

Địa chỉ: Thôn LP, xã TL, huyện T1, tỉnh Thái Bình (có mặt).

- Bị đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Thôn LP, xã TL, huyện T1, tỉnh Thái Bình (vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Hoàng Ngọc N trình bày:

Anh và chị H tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 18/9/1988 được Uỷ ban nhân dân xã TL, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2016. Xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, ngày 07/8/2019, anh N và chị H đến Tòa án, lập văn bản thuận tình ly hôn tại Trung tâm H giải, đối thoại tại Tòa án, Tòa án đã thụ lý việc dân sự số 206/TB-TLVA ngày 07 tháng 8 năm 2019; đến ngày 13/8/2019, anh N và chị H đến Tòa án rút đơn yêu cầu thuận tình ly hôn do chị H có yêu cầu về chia tài sản chung, anh N vẫn có yêu cầu xin ly hôn chị H.

Về quan hệ con chung: Anh N xác định, anh và chị H có 02 con chung là Hoàng Văn N1, sinh năm 1991 và Hoàng Văn T, sinh năm 1996. Các con chung đã trưởng thành nên anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Anh N không yêu cầu giải quyết.

Tại đơn đề nghị công nhận thuận tình ly hôn, Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành và Biên bản hòa giải, đối thoại thành ngày 06/8/2019 chị Lê Thị H có ý kiến:

Chị đồng ý thuận tình ly hôn với anh Hoàng Ngọc N. Về con chung, anh chị có 02 con chung đều đã trưởng thành nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án đã thụ lý việc dân sự số 206/TB - TLVA ngày 07 tháng 8 năm 2019; đến ngày 13/8/2019, chị H đến Tòa án rút đơn yêu cầu thuận tình ly hôn do chị H có yêu cầu về chia tài sản chung, anh N vẫn có yêu cầu xin ly hôn chị H. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình đình chỉ giải quyết việc dân sự, thụ lý giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung.

Tại bản tự khai, biên bản công khai chứng cứ và hòa giải ngày 17/9/2019, bị đơn là chị Lê Thị H trình bày:

Chị H xác định về quá trình chung sống hôn nhân như anh N trình bày là đúng. Nay anh N có đơn xin ly hôn thì quan điểm của chị như sau: Chị đề nghị Tòa án cho thêm thời gian để chị báo cáo với hai bên gia đình về việc phân chia tài sản. Chị có ý kiến là chia tài sản là nhà cho cả hai con trai là con chung của anh chị. Chị H nộp đơn khởi kiện chia tài sản kèm theo đơn đề nghị, đơn bổ sung, bản sao căn cước công dân của chị H.

Tại phiên hòa giải ngày 27/9/2019, bị đơn là chị Lê Thị H trình bày:

Chị không đồng ý ly hôn với anh N, do hiện nay chị cũng đã có tuổi và chúng tôi có 02 người con trai, trong đó 01 người vẫn chưa lập gia đình nên chị không đồng ý ly hôn để chăm lo cho con cái. Chị không đồng ý ly hôn nên vấn đề con chung, tài sản chung và nợ chung chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Ngày 24/10/2019, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án, anh N đến phiên tòa, chị H không đến phiên tòa, căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, phiên tòa được mở lại vào ngày 08/11/2019.

Tại phiên tòa hôm nay, chị H vắng mặt lần thứ hai không có lý do, anh Hoàng Ngọc N vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn chị H, về con chung do các con đã trưởng thành anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung, anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là anh Hoàng Ngọc N có mặt, bị đơn là chị Lê Thị H vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Lê Thị H. [2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Anh Hoàng Ngọc N và chị Lê Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của anh N cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, trong quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2016. Do xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, anh chị đã đến Tòa án đề nghị thụ lý, giải quyết việc dân sự thuận tình ly hôn.

[2.2] Ngày 07/8/2019, Tòa án nhân dân huyện T1 thụ lý việc dân sự thuận tình ly hôn giữa anh N và chị H; đến ngày 13/8/2019, anh N và chị H đến Tòa án rút đơn yêu cầu thuận tình ly hôn do chị H có yêu cầu về chia tài sản chung. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình đình chỉ giải quyết việc dân sự, thụ lý vụ án để giải quyết theo thủ tục chung.

Ngày 22/8/2019 Tòa án ra thông báo nộp tạm ứng án phí chia tài sản chung trong thời hạn 07 ngày và giao trực tiếp cho chị H, hết thời hạn trên chị H không nộp biên lai tạm ứng án phí cho Tòa án mà không có lý do chính đáng. Đến ngày 17/9/2019, Tòa án tổ chức phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, chị H vẫn chưa nộp tạm ứng án phí. Do vậy Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, giải quyết yêu cầu về chia tài sản chung của vợ chồng đối với chị H. Các đương sự có quyền khởi kiện vụ án chia tài sản chung sau ly hôn khi có yêu cầu.

[2.3] Tại phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải ngày 17/9/2019, anh N chị H xác định quá trình chung sống và mâu thuẫn trong hôn nhân là đúng. Anh chị thống nhất ly hôn. Anh chị không thống nhất được về quan hệ tài sản.

[2.4] Tại phiên hòa giải lần 2 ngày 27/9/2019, anh N vẫn yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị H. Chị H không đồng ý ly hôn với anh N, chị có ý kiến do hiện nay chị cũng đã có tuổi và anh chị có 02 người con trai, trong đó 01 người vẫn chưa lập gia đình nên chị không đồng ý ly hôn để chăm lo cho con cái. Chị không đồng ý ly hôn nên vấn đề con chung và tài sản chung chị không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị H không đồng ý ly hôn nhưng chị cũng đồng ý với anh N về việc quá trình chung sống mâu thuẫn và sống ly thân của vợ chồng là có thật; trong thời gian sống ly thân anh chị không quan tâm đến nhau, chị H cũng không đưa ra được giải pháp để vợ chồng trở về đoàn tụ, chung sống hạnh phúc.

[2.5] Chị H không đồng ý ly hôn nhưng chị H không đến Tòa án tham gia phiên tòa, chị cũng không thể hiện về quan điểm giải quyết vụ án và không đưa ra được phương án vợ chồng về đoàn tụ. Nguyên đơn là anh Hoàng Ngọc N vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn chị H. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm vợ chồng của anh N và chị H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình xử cho anh N được ly hôn chị H. [3] Về con chung: Anh N và chị H có 02 con chung là Hoàng Văn N1, sinh năm 1991 và Hoàng Văn T, sinh năm 1996. Các con chung đã trưởng thành, anh N không đề nghị Tòa án giải quyết. Tại phiên hòa giải lần 2 ngày 27/9/2019, chị H có ý kiến còn 01 người con vẫn chưa lập gia đình nên chị không đồng ý ly hôn để chăm lo cho con cái. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, các con chung của anh chị đã trưởng thành, đều khỏe mạnh nên không đặt ra giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Anh Hoàng Ngọc N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho anh Hoàng Ngọc N được ly hôn chị Lê Thị H.

2. Về con chung: Không đặt ra giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Nguyên đơn là anh Hoàng Ngọc N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí anh N đã nộp theo Biên lai số 0009212 ngày 06/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình. Anh N đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2019/HNGĐ-ST ngày 08/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:72/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về