TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 72/2018/HSPT NGÀY 03/10/2018 VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 26/9 và 03/10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Long An mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số56/2018/TLPT-HS ngày 12/7/2018, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 32/2018/HSST ngày 31/5/2018 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnhLong An.
Bị cáo có kháng cáo:
Vũ VTr (tên gọi khác Th), sinh năm 1978.
Đăng ký thường trú: Thôn C, xã CL, thị xã QY, tỉnh QN. Tạm trú tại số 899, Tổ 8, ấp LT, xã L1, huyện C, tỉnh Long An. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 10/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Con ông: Vũ VD sinh năm 1953 (chết) và bà Ngô Thị H, sinh năm 1952; Vợ: Nguyễn Thị CH, sinh năm 1983; Có 01 người con sinh năm 2012.
Tiền án: không.
Tiền sự: Bị Chủ Tịch Ủy ban nhân dân huyện C ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 9012/QĐ-XPVPHC ngày 18/12/2015 về hành vi “Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép sang đất phi nông nghiệp với diện tích là 600m2 thuộc thửa đất số 365, tờ bản đồ số
2, diện tích 1.482m2, loại đất trồng lúa, tại ấp LT, xã L1, huyện C. (Bị cáo chưa chấp hành).
Về nhân thân: Ngày 24/01/2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (đã được xóa án tích).
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
2. Những người tham gia tố tụng khác không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị không triệu tập
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1.Bà Nguyễn Thị CH, sinh năm 1983. Đăng ký thường trú: ấp TĐ, xã L1,huyện C, tỉnh Long An.
2.Ông Nguyễn VH, sinh năm 1963. Đăng ký thường trú: ấp 1, xã S, huyệnĐQ, tỉnh ĐN.
3.Ông Trần CK, sinh năm 1988. Đăng ký thường trú: ấp MC, xã PL, huyện C, tỉnh Long An.
4.Ông Hồ H, sinh năm 1989. Đăng ký thường trú: ấp 4, xã LH, huyện CĐ, tỉnhLong An.
5.Ông Huỳnh QT, sinh năm 1984. Đăng ký thường trú: ấp LT, xã L1, huyệnC, tỉnh Long An,
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tháng 10/2015, Vũ VTr nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Nguyễn VH thửa đất số 365, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.482m2, loại đất lúa, đất tại ấp LT, xã L1, huyện C, tỉnh Long An. Ngày 06/10/2015, Vũ VTr và Nguyễn VH không làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà đến phòng Công chứng C làm thủ tục ủy quyền. Ông Nguyễn VH ủy quyền cho Vũ VTr được quyền quản lý, sử dụng, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp thửa đất 365. Sau khi được ông VH ủy quyền, Tr tự ý chuyển mục đích sử dụng đất từ đất trồng lúa sang đất ở để xây nhà và bán cho người dân có nhu cầu nhằm thu lợi. Đến ngày 20/11/2015, cán bộ địa chính xã L1 tiến hành kiểm tra thực địa tại thửa đất số 365 phát hiện Vũ VTr thuê thợ xây dựng trái phép 12 căn nhà cấp 4, mỗi căn đều có gác lững, đã xong phần thô chưa hoàn thiện. Cán bộ địa chính lập biên bản và yêu cầu ngừng thi công, đề nghị Vũ VTr sử dụng đất đúng mục đích ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và báo cáo Ủy ban nhân dân xã L1 có công văn đề nghị phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C, Ủy ban nhân dân huyện C xử lý theo thẩm quyền.
Ngày 08/12/2015 phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C, phối hợp với Ủy ban nhân dân xã L1 tiến hành kiểm tra hiện trạng thửa đất 365, tờ bản đồ số 2, trên phần đất lúa mà Tr nhận chuyển nhượng từ ông Hiếu đã xây dựng nhà ở trái phép với tổng diện tích đất là 600m2. Ngày 14/12/2015, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai đối với Vũ VTr. Ngày 18/12/2015, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 9012/QĐ-XPVPHC xử phạt Vũ VTr về hành vi “Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép sang đất phi nông nghiệp với diện tích là 600m2 thuộc thửa đất số 365, tờ bản đồ số 2, được quy định tại điểm a, Khoản 3, Điều 6 của Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai”. Hình thức xử phạt chính là phạt tiền 15.000.000 đồng. BuộcVũ VTr khôi phục lại tình trạng của đất như trước khi vi phạm, thời gian thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả là 30 ngày, kể từ ngày nhận quyết định. Ngày 23/12/2015 Vũ VTr đã nộp tiền phạt 15.000.000 đồng, nhưng không thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả.
Đầu tháng 01/2016, Vũ VTr tiếp tục chuyển mục đích đất trồng lúa sang đất ở đối với phần diện tích còn lại của thửa 365 là 882m2 và xây dựng trái phép thêm 16 căn nhà cấp 4 trên diện tích đất còn lại của thửa 365 và chuyển nhượng hết 28 căn nhà đã xây dựng cho các người dân có nhu cầu bằng hình thức lập hợp đồng bằng giấy tay không công chứng; giá chuyển nhượng mỗi căn nhà từ 270.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Đến ngày 22/6/2017, Ủy ban nhân dân xã L1 đã lập biên bản vi phạm và báo cáo về Ủy ban nhân dân huyện C đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đối với Vũ VTr. Ngày 30/6/2017, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 9099/QĐ-XPVPHC xử phạt Vũ VTr phạt tiền là 20.000.000 đồng, buộc Vũ VTr khôi phục lại tình trạng của đất như trước khi vi phạm, thời gian thực hiện là 10 ngày đối với phần xây dựng 16 căn nhà từ tháng 01/2016.
Ngày 29/8/2017, Công an huyện C phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm nên có công văn đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C hủy quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 9099/QĐ-XPVPHC ngày 30/6/2017 của Chủ Tịch Ủy ban nhân dân huyện C và yêu cầu Ủy ban chuyển hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện C tiến hành điều tra theo quy định. Ngày 14/11/2017, Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 12203/QĐ-HBXPVPHC hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 9099/QĐ-XPVPHC. Sau khi nhận hồ sơ vụ án Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện C tiến hành mời Vũ VTr làm việc Vũ VTr đã khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 32/2018/HSST ngày 31/5/2018 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Long An đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Vũ VTr phạm tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đấtđai”.
Căn cứ Khoản 1 Điều 173, Khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 1999;điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Vũ VTr 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Bị cáo Vũ VTr bị phạt bổ sung là 15.000.000đồng, số tiền trên sung quỹ Nhànước.
Bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí; quyền và thời hạn kháng cáo đối với những người tham gia tố tụng.
Ngày 01/6/2018, bị cáo Vũ VTr kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vũ VTr thừa nhận đã thực hiện hành vi đúng như bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo đã chuyển mục đích sử dụng đất, xây nhà không đúng theo quy định của pháp luật trên thửa đất 365. Khi bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C xử phạt vi phạm hành chính nhưng bị cáo không chấp hành mà tiếptục xây dựng và chuyển nhượng bằng giấy tay 16 căn nhà cho các hộ dân. Bị cáo xác định bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai” là đúng, không oan; bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Vũ VTr về tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai”, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 1999 và xử phạt bị cáo 09 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, có xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt được hưởng án treo, có cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự. Xét thấy mức hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau
[1] Từ tháng 10/2015 đến tháng 4/2016 bị cáo Vũ VTr không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép đã có hành vi tự ý chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa của thửa đất 365, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.482m2, tại ấp LT, xã L1, huyện C, tỉnh Long An sang đất phi nông nghiệp. Bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép sang đất phi nông nghiệp với diện tích là 600m2 thuộc thửa đất số 365, tờ bản đồ số 2, bằng hình thức xây dựng 12 căn nhà cấp 4; Bị cáo chưa chấp hành đúng hình thức phạt bổ sung của quyết định, mà tiếp tục chuyển mục đích sử dụng đất đối với diện tích còn lại của thửa đất số 365, để xây dựng tiếp 16 căn nhà cấp 4, tổng cộng bị cáo xây dựng 28 căn nhà cấp 4 rồi chuyển nhượng bằng giấy tay toàn bộ nhằm mục đích thu lợi.
[2] Hành vi của bị cáo Vũ VTr đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai”, nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều173 Bộ luật hình sự năm 1999 và xử phạt bị cáo 09 tháng tù là là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, có xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
[3] Bị cáo kháng cáo bổ sung thêm tình tiết: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, có việc làm ổn định, có nơi cư trú rõ ràng, có giấy bảo lãnh cho bị cáo được hưởng án treo của công ty và gia đình, ông nội được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì, đây là các tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà bị cáo mới cung cấp.
Xét thấy mặc dù hành vi của bị cáo thuộc khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự có mức án từ 03 tháng đến 03 năm là tội phạm ít nghiêm trọng nhưng không có căn cứ để áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017 (phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng) vì về nhân thân, ngày 24/01/2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 03 nămtù về tội “Cố ý gây thương tích” (đã được xóa án tích); Đồng thời, bị cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 nên không chấp nhận cho bị cáo hưởng án treo mà chỉ chấp nhận một phần kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[4] Về án phí: Bị cáo Vũ VTr không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các khoản khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Vũ VTr, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 32/2018/HSST ngày 31/5/2018 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Long An.đai”.
Tuyên bố: Bị cáo Vũ VTr phạm tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất
Căn cứ Khoản 1 Điều 173, Khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Vũ VTr 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Bị cáo Vũ VTr bị phạt bổ sung là 15.000.000đồng sung công quỹ Nhà nước.
2. Về án phí: Bị cáo Vũ VTr không chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 72/2018/HSPT ngày 03/10/2018 về tội vi phạm các quy định sử dụng đất
Số hiệu: | 72/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về