Bản án 71/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 về tội cướp tài sản, gây rối trật tự công cộng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 71/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 54/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2021/HSST-QĐ ngày 15 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đỗ Đức M, sinh ngày 18/8/2005 tại Hải Phòng (khi phạm tội 14 tuổi 10 tháng 15 ngày). Nơi cư trú: Số 100 L, phường L, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Mạnh T và bà Hoàng Thị L; chưa có vợ con. Tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 05/7/2020, tạm giam ngày 14/7/2020, cho bảo lĩnh ngày 22/9/2020; có mặt.

2. Đào Quang V (tên gọi khác: V sẹo), sinh ngày 20/5/2005 tại Hải Phòng (khi phạm tội 15 tuổi 01 tháng 13 ngày). ĐKTT: Số 203, T2/136 N, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 24 C, phường A, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Xuân H và bà Đỗ Thị Diệu T; chưa có vợ con. Tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 06/7/2020, tạm giam ngày 14/7/2020, cho bảo lĩnh ngày 22/9/2020; có mặt.

3. Chu H my (tên gọi khác M kun), sinh ngày 13/02/2001 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 307 P, phường P, quận H, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Anh H và bà Trần Bích T; chưa có vợ con. Tiền án: 01 tiền án: Bản án số 03 ngày 09/01/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử Chu H my 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản, thời gian thử thách 36 tháng (khi phạm tội Mạnh 17 tuổi 11 tháng 01 ngày); tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 12/6/2021; có mặt.

4. Phan Tuấn H (tên gọi khác: H my), sinh ngày 09/5/2004 tại Hải Phòng (khi phạm tội 16 tuổi 01 tháng 25 ngày). Nơi cư trú: Số 6/17/346 T, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Ngọc T và bà Lê Thị N; chưa có vợ con. Tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 11/6/2021; có mặt.

5. Nguyễn Tiến Đ (tên gọi khác Đ đề), sinh ngày 19/10/2002 tại Hải Phòng (khi phạm tội 17 tuổi 08 tháng 14 ngày). Nơi cư trú: Số 162/27 L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tiến T và bà Nguyễn Thị Thu H; chưa có vợ con. Tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 11/6/2021; có mặt.

6. Trương Hồng Đ (tên gọi khác Đức Anh), sinh ngày 05/5/2004 tại Hải Phòng (khi phạm tội 16 tuổi 01 tháng 29 ngày). Nơi cư trú: Số 6/22/422 T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Ngọc T và bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ con. Tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 11/6/2021; có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đỗ Đức M: Bà Hoàng Thị L (là mẹ đẻ của bị cáo), địa chỉ Số 100 L, phường L, quận L, Hải Phòng; có mặt

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đào Quang V: Bà Đỗ Thị Diệu T (là mẹ đẻ của bị cáo), địa chỉ: Số 24 C, phường A, quận L, Hải Phòng; có mặt

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Phan Tuấn H: Bà Lê Thị N (là mẹ đẻ của bị cáo), địa chỉ: Số 6/17/346 T, phường H, quận L, Hải Phòng; có mặt

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Tiến Đ: Bà Nguyễn Thị Thu H (là mẹ đẻ của bị cáo), địa chỉ: Số 162/27 L, phường M, quận N, Hải Phòng; có mặt

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Trương Hồng Đ: Ông Trương Ngọc T (là bố đẻ của bị cáo), địa chỉ: Số 6/22/422 T, phường Trần Nguyên H, quận L, Hải Phòng; có mặt

Người bào chữa cho các bị cáo Phan Tuấn H và Trương Hồng Đ: Ông Nguyễn Văn Tú Ngọc và bà Dương Thanh Huyền, Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt

Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Đức M: Bà Dương Thanh Huyền, Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng;

Người bào chữa cho bị cáo Đào Quang V: Ông Nguyễn Văn Tú Ngọc, Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt

Bị hại: Anh Hoàng Tuấn L, sinh năm 2002, địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện A, Hải Phòng; có mặt

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Phạm Văn V, địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện A, Hải Phòng; vắng mặt

- Anh Nguyễn Thanh T, địa chỉ: Thôn Q, xã N, huyện A, Hải Phòng; vắng mặt

- Bà Đỗ Thị Diệu T, địa chỉ: Số 24 C, phường A, quận L, Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 02/7/2020, Nguyễn Việt A (tên gọi khác V xù) sinh ngày 12/12/2007, địa chỉ: Chung cư SHB, phường L, quận N, Hải Phòng; Nguyễn Hoàng Đình T (tên gọi khác T bóng), sinh ngày 15/3/2007, địa chỉ: ngõ 288 M, phường D, quận L, Hải Phòng cùng một số người khác đi sang khu vực đường 208, An Đồng, An Dương, Hải Phòng chơi thì bị hai đối tượng nam giới đi xe máy và dùng vũ khí đuổi đánh. Nhóm của Việt Xù bỏ chạy nên không xảy ra sự việc gì.

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 03/7/2020, Việt xù, Tú bóng, Nguyễn Tiến Đ (tên gọi khác Đ đề), Dương Nam T (tên gọi khác T con), sinh ngày 31/10/2005, địa chỉ: tại 23/11 đường M, phường M, quận Hồng Bàng, Hải Phòng; Bùi Hữu N (tên gọi khác N ngát), sinh năm 2002, trú tại đường Lê Lai, Hải Phòng và 01 người bạn của N ngát (chưa rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) uống nước tại quán nước gần nhà Tú bóng. Tại đây, Việt xù rủ tí nữa đi tìm bọn tối hôm trước đã đuổi nhóm Việt xù để đánh. Tú bóng, T con, Đ đề và Ngọc ngát đồng ý. Sau đó, T con chở Việt xù về nhà Việt xù lấy 01 đao còn 01 đao Zoombie có sẵn trong cốp xe mô tô của Việt xù; Tú bóng về nhà lấy 01 đao và 01 kiếm. Đ đề và Ngọc ngát cũng đi về. Sau đó, T con điều khiển xe mô tô BKS 15B3-701.61 chở Việt Xù, Tú bóng điều khiển xe mô tô BKS 15B3-585.51 đi ra chân cầu An Dương. Đến nơi, Tú bóng và Việt xù để vũ khí trong bụi cỏ dưới chân cầu. Việt xù gọi điện cho Nguyễn Trung H (tên gọi khác H con), sinh năm 2006, địa chỉ: số 20A/47/318 P, phường N, quận L, Hải Phòng rủ đi đánh nhau. Lúc này, H con đang ở cùng M kun, H my, Đỗ Đức M, Đào Quang V (tên gọi khác V sẹo), Nguyễn Hoàng H (tên gọi khác H tổng), sinh ngày 16/02/2005, địa chỉ:số 309 đường L, phường L, quận Ngô Quyền, Hải Phòng, Vũ Minh Đ (tên gọi khác Đ ngố), sinh ngày 01/6/2005, địa chỉ: số 1/6/175 T, phường A, quận L, Hải Phòng, Lê Nguyễn Gia B (tên gọi khác B Sịp), sinh ngày 20/7/2006, địa chỉ: khu Chung cư T, xã A, huyện A, Hải Phòng, Nguyễn Nam A, sinh năm 2005, trú tại P, phường G, quận Ngô Quyền, Hải Phòng, Ngọc (tên gọi khác Ngọc nghiện) chưa rõ nhân thân, lai lịch và một số người khác đang ăn sinh nhật Trần Sỹ Bình M, sinh ngày 09/8/2005, địa chỉ: thôn C, xã A, huyện An Dương, Hải Phòng, tại quán lẩu nướng trên đường Hoàng Minh Thảo, quận Lê Chân, Hải Phòng. Hiếu bảo với Việt xù "bọn nó ở đây hết rồi, đang ăn sinh nhật, có gì ở đâu gọi". Sau khi sinh nhật xong, cả nhóm đi lượn đường, đến đoạn phố Nhà thương thì gặp Đ đề đi xe mô tô một mình. H my lúc này ngồi sau xe đạp điện của bạn, Đ đề bảo H my lên xe thì H my đã sang ngồi sau xe Đ đề. Lúc này, H con bảo đội Việt xù đợi ở chân cầu An Dương để đi đánh nhau. Sau đó, M kun bảo về nhà lấy khẩu trang, cả nhóm đi về đường Phan Bội Châu đợi M kun mang khẩu trang ra đưa cho mọi người bịt mặt và che biển số xe. Cả nhóm đi sang chân cầu An Dương thì gặp Việt xù, T con, Tú bóng, Ngọc ngát và An (chưa rõ lai lịch, địa chỉ). Tại đây, Tú bóng đưa kiếm cho H my, Việt xù đưa đao Zoombie cho M kun còn Tú bóng và Việt Xù mỗi người cầm một đao dài; Nam Anh cầm một gậy đánh golf có sẵn từ trước. Chuẩn bị xong khoảng 22 giờ, cả nhóm đi về phía huyện An Dương để tìm các đối tượng hôm trước đuổi nhóm Việt xù đánh nhau. B sịp điều khiển xe mô tô BKS 15B3-701.61 chở Việt xù ngồi sau cầm đao; T con điều khiển xe mô tô BKS 15B3-585.51 chở Tú bóng ngồi sau cầm đao dài; H con điều khiển xe mô tô BKS 15B3-704.92chở M kun ngồi sau cầm đao Zoombie; An điều khiển xe mô tô không rõ biển kiểm soát chở Ngọc ngát ngồi sau cầm kiếm; Đ đề điều khiển xe mô tô BKS 15B3-490.32 chở H my ngồi sau cầm kiếm; Hiệp tổng điều khiển xe mô tô không rõ biển kiểm soát chở Nam Anh ngồi sau cầm một gậy golf; Ngọc nghiện điều khiển xe mô tô BKS 15B2-083.38 chở Bình Minh; V sẹo điều khiển xe mô tô BKS 16M6-8742 chở Đỗ Đức M; Đức ngố điều khiển mô tô BKS 15B3-323.55. Trên đường đi, Nam Anh đưa gậy golf cho Bình Minh. Cả nhóm đi theo đường 208 về thị trấn An Dương. Khi đến khu vực gần cây xăng trên đường 351 thuộc tổ 4 thị trấn An Dương, An Dương, Hải Phòng thì gặp anh Hoàng Tuấn L, sinh ngày 25/7/2002, địa chỉ: thôn C, xã N, huyện An Dương Hải Phòng, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu đen, biển kiểm soát 15B3-608.09 chở anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 2001, địa chỉ: thôn Q, xã N, huyện An Dương, Hải Phòng đi trước cùng chiều. Tú bóng hô lên “đúng bọn này rồi” và T con chở Tú bóng chặn đầu xe anh L thì anh L bảo các anh nhầm người rồi thì Việt xù cầm đao chém về phía anh T và anh L nhưng không trúng. Anh L bỏ xe lại và cùng anh T chạy về phía quán lẩu nướng Seoul Garden ở gần đó. Bình Minh nhảy xuống xe, dùng gậy golf vụt 01 nhát vào lưng anh L làm gẫy gậy golf. Anh L đẩy Bình Minh ra thì H my cầm kiếm chém một nhát về phía anh L còn Đỗ Đức M nhặt phần gậy golf bị gãy đánh vào vùng vai và bắp chân anh L. Anh L chạy vào trong quán lẩu thì các đối tượng không đuổi theo nữa. Còn T con chở Tú bóng đuổi theo anh T, Tú bóng dùng đao chém 01 nhát vào lưng anh T gây thương tích, sau đó, anh T chạy vào trong quán lẩu thì T và T không đuổi nữa. Còn các đối tượng khác ngồi trên xe ở đường quan sát.

Sau khi không đuổi anh L nữa, Đỗ Đức M quay lại dựng xe mô tô của anh L nổ máy đi nhằm chiếm đoạt chiếc xe trên thì M kun dùng đao Zoombie chém một nhát về phía Đức M nhưng không trúng. Lúc này,V sẹo hô lên “anh M ơi, thằng M bên mình mà” thì M kun lại chém 03 nhát vào đầu xe, thân xe và đuôi xe mô tô của anh L. Đức M tiếp tục dựng xe và nổ máy đi thì bị vọt tay ga nên đổ ngã theo xe. Thấy vậy, V sẹo bảo “đi nhanh lên, cầm xe đi không công an ra bây giờ”. Đức M lên xe và nổ máy đi về một mình. Trên đường về, Đức M mở cốp xe kiểm tra thì thấy có một số tài sản. Đức M lấy chìa khóa có dây móc màu đỏ đút vào túi quần rồi đi về nhà. Các đối tượng còn lại đi về đến trước cửa quán bò nhừ ở đường 208 thuộc tổ 1, thị trấn An Dương, An Dương, Hải Phòng thì gặp anh Phạm Văn V, sinh ngày 25/10/2002, địa chỉ: T, Đ, An Dương, Hải Phòng chở bạn tên Mai (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) vừa dừng xe trước cửa quán. Tú hô lên “đúng thằng này rồi” thì T con chở Tú bóng áp sát vào xe mô tô BKS 15B2-713.78 của anh V, Tú bóng dùng đao chém 01 nhát về phía anh V. Anh V chạy vào trong quán, M kun và H my, Ngọc ngát cầm kiếm chém vào xe mô tô của anh V rồi cả nhóm đi về.

Khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày, khi cả nhóm đang trú mưa trên đường Tô Hiệu, Lê Chân, Hải Phòng. H my gọi điện thoại cho Đức M bảo mang xe mô tô Mạnh vừa lấy ra cầu Niệm nhưng Mạnh không đồng ý. Sau đó, Mạnh bảo gặp nhau ở hồ Tam Bạc, Hải Phòng. Khi M đi xe mô tô của anh L ra chỗ hẹn thì gặp T con, Tú bóng, V sẹo, Việt xù. Cả nhóm đi sang khu Hoàng Huy Group thì T bảo M mở cốp xe mô tô 15B3-608.09 thì thấy có hai mũ bảo hiểm một màu trắng, một màu đen, một sạc điện thoại dự phòng màu hồng kèm dây sạc, hai lọ tinh dầu, một áo phông dạng áo múa lân, một thỏi son, 01 áo mưa, 01 tai nghe blutooth, 01 loa còi báo động, 01 túi vải màu xanh. T lấy 01 sạc dự phòng kèm dây sạc, 01 thỏi son, 01 tai nghe bluetooth và 01 loa còi báo động và rủ mọi người mang chiếc xe trên sang khu vực Metro, Hồng Bàng, Hải Phòng cắm thì V sẹo, Mạnh, Tú bóng không nói gì còn Việt xù bảo trả xe chứ không nuốt nổi chiếc xe này đâu. Sau đó, cả nhóm đi lượn đường một lúc thì T con, Tú bóng và Việt xù đi về còn Mạnh và V sẹo mang chiếc xe mô tô trên đến gửi tại bãi xe gần cầu Niệm, Lê Chân, Hải Phòng. Mạnh cầm chìa khóa xe còn V sẹo cầm vé xe rồi đi về.

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 04/7/2020, Mạnh và V sẹo đến bãi xe lấy xe mô tô BKS 15B3-608.09 rồi mang sang khu vực Kiến An cắm hoặc bán xe nhưng không có giấy tờ nên không cắm được. M vào quán sửa xe gần chân cầu Niệm nhờ người tháo biển số xe và giá để chân bằng inox rồi mang biển số xe về cất ở khe quán nước trên đường Nguyễn Công Hòa, Lê Chân, Hải Phòng còn giá để chân bằng inox thì vứt đi. Sau đó, Mạnh và Việt quay lại gửi xe ở bãi gửi xe ở chân cầu Niệm. Mạnh vẫn cầm chìa khóa còn Việt cầm vé xe.

Khoảng 16 giờ cùng ngày, M đi làm tại quán lẩu nướng trên đường Hoàng Minh Thảo, Lê Chân, Hải Phòng. Tại đây, M kể với Trương Hồng Đ (cũng là nhân viên của quán) về việc tối qua đi đánh nhau ở bên An Dương, lấy được một chiếc xe Air Blade và muốn gửi ở nhà Đ. Đ đồng ý. Sau khi tan làm khoảng 21 giờ cùng ngày Đ cùng M đi lấy chiếc xe trên nhưng Đ sợ anh trai không cho để ở nhà nên đã nhắn cho Nguyễn Bảo A, sinh ngày 08/3/2004, địa chỉ: thôn C, xã A, huyện A, Hải Phòng nhờ gửi chiếc xe trên ở nhà Bảo A. Bảo A đồng ý nên khoảng 22 giờ cùng ngày, Bảo A đi ra gặp Đ và Đức M ở quán nước chè tại khu vực Cát Bi Plaza, Ngô Quyền, Hải Phòng. Tại đây, Đ nói với Bảo A là M và Đ mới chung tiền mua chiếc xe đó. Sau đó, Đ đi xe mô tô nhãn hiệu Sirius của Bảo A về còn Bảo A đi chiếc xe Air Blade trên về nhà để.

Ngày 04/7/2020, anh Hoàng Tuấn L đã trình báo Công an về sự việc trên.

Sáng ngày 05/7/2020, M đến nhà Bảo A lấy chiếc mô tô Air Blade rồi sau đó cùng một số người khác đi sang khu chung cư Hoàng Huy, An Đồng, An Dương, Hải Phòng với mục đích trả xe thì bị lực lượng Công an kiểm tra, thu giữ chiếc xe nêu trên. Thu giữ trong cốp xe có các tài sản: 02 lọ tinh dầu, 01 áo mưa, 01 áo phông đỏ, 01 gương bên trái xe mô tô, 01 túi vải màu xanh, 01 sạc pin điện thoại, 01 mũ bảo hiểm màu trắng, 01 mũ bảo hiểm màu đen, 01 giấy bảo hiểm xe mang tên Hoàng Nguyễn Tuấn Anh.

Ngoài ra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 BKS 15B3-608.09 do chị Trần Mỹ N, sinh năm 1984, địa chỉ: Số 37 N, L, Hải Phòng (chủ quán nước trên đường Nguyễn Công Hòa) giao nộp; 01 đao bằng kim loại dài 1m65, cán đao và thân đao có ren xoáy tháo ra được do T bóng giao nộp; ½ phần gậy golf dài 44cm thu tại hiện trường xảy ra vụ việc; 01 xe mô tô BKS 16M6-8742 của V sẹo sử dụng chở Mạnh tối 03/7/2020; 01 xe mô tô BKS 15B3-585.51 T con sử dụng chở Tú bóng tối 03/7/2020; 01 tai nghe bluetooth do Dương Nam T giao nộp.

Đối với 01 đao dài Việt xù cầm, 01 kiếm H my cầm, 01 kiếm Ngọc ngát cầm và phần còn lại của gậy golf Bình Minh cầm, 01 sạc dự phòng, 01 dây móc chìa khóa, 01 thỏi son, 01 loa còi báo động, 01 sạc pin điện thoại, 02 ốp để chân xe mô tô bằng inox không thu hồi được.

Theo Kết luận định giá tài sản ngày 15/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện An Dươngkết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade có số khung RLHJF6323KZ242444 và số máy JF63E - 2694316, không gắn biển kiểm soát đã qua sử dụng chất lượng còn lại 65%, trị giá 27.500.000 đồng.

Theo Kết luận định giá tài sản ngày 08/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện An Dương kết luận thiệt hại của chiếc xe trên như sau: Ốp yếm trước trái và ốp sườn sau trái bị chém gây vỡ, mất mảnh trị giá 400.000đ; Ốp để chân bên trái, ốp gầm bị chém gẫy vỡ, mất mảnh trị giá 450.000đ; Giá trị tem yếm trước trái và sườn sau trái trị giá 400.000đ; Tổng trị giá 1.250.000đ (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Ốp inox để chân 02 bên bị mất: không đủ căn cứ để định giá.

Theo Kết luận định giá tài sản ngày 29/6/2021của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện An Dương kết luận các tài sản trong cốp chiếc xe trên như sau: 02 chiếc mũ bảo hiểm nửa đầu màu trắng, đen, đã qua sử dụng trị giá 28.000 đồng; 01 áo mưa màu xám đã qua sử dụng trị giá 24.500 đồng; 01 tai nghe blutooth đã qua sử dụng trị giá 605.000 đồng; 01 áo phông đỏ đã qua sử dụng trị giá 15.500 đồng; 01 túi vải màu xanh đã qua sử dụng trị giá 31.500 đồng; 01 Gương chiếu hậu xe máy bên trái, đã qua sử dụng trị giá 10.000 đồng; tổng giá trị 714.000 đồng. Đối với 02 lọ tinh dầu, hàng đã sử dụng, không xác định được giá trị cụ thể.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 374 ngày 04/8/2020 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Anh Nguyễn Thanh T bị một vết thương rách da kích thước 02cm x 0,3cm sau lưng trái không đủ lớn đánh giá tỷ lệ phần trăm thương tổn cơ thể. Thương tích trên có đặc điểm do vật sắc hoặc tương đối sắc tác động trực tiếp gây nên.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 375 ngày 05/8/2020 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Anh Phạm Văn V bị một vết sưng nề bầm tím vùng đầu hiện đã khỏi không để lại dấu vết làm căn cứ đánh giá tỷ lệ phần trăm thương tổn cơ thể. Thương tích trên do vật tày tác động trực tiếp gây nên.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 376 ngày 05/8/2020 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Anh Hoàng Tuấn L bị vết xây xước da nông vùng má phải, cổ phải, cánh tay trái, vùng lưng và vết bầm tím vùng sau vai trái không ảnh hưởng chức năng đã ổn định, sẽ khỏi hoàn toàn, không để lại sẹo, không đánh giá tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể. Các thương tích trên có đặc điểm do vật sắc hoặc tương đối sắc tác động trực tiếp gây nên.

Ngày 05/7/2020 và ngày 06/7/2020, Đỗ Đức M và Đào Quang V bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Ngày 12/6/2021, Chu H my bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương bắt tạm giam.

Tại Cáo trạng số 56/CT-VKSAD ngày 03 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự; truy tố các bị cáo Chu H my, Phan Tuấn H và Nguyễn Tiến Đ về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự và truy tố bị cáo Trương Hồng Đ về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V, Chu H my, Phan Tuấn H, Nguyễn Tiến Đ, Trương Hồng Đ khai nhận về hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Người đại diện hợp pháp của các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V, Phan Tuấn H, Nguyễn Tiến Đ, Trương Hồng Đ đều đồng ý với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa và không bổ sung thêm ý kiến gì.

Tại phiên tòa bị hại Hoàng Tuấn L khai có nội dung như các bị cáo khai nhận tại phiên tòa. Về trách nhiệm dân sự, bị hại đồng ý với số tiền các bị cáo đã nộp tại Chi cục thi hành án để bồi thường gồm: Yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản không thu hồi được và những tài sản trong cốp xe là 1.534.000 đồng, mua thuốc chữa các vết thương là 480.000 đồng, thiệt hại của xe và sửa xe là 8.250.000 đồng = 10.264.000 đồng. Ngoài ra, bị hại yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thêm tiền tổn thất về tinh thần là 49.736.000 đồng, tiền mất thu nhập do phải nghỉ làm để điều trị từ tháng 07/2020 đến tháng 9/2021 là 7.500.000đồng/tháng x 15 tháng = 112.500.000đồng. Và xuất trình Sổ khám bệnh của Phòng khám đa khoa Quán Toan kèm theo 08 hóa đơn bán lẻ (ghi tiền mua thuốc) không ghi tên, địa chỉ của của đơn vị bán hàng với tổng số tiền ghi trên các hóa đơn là 18.280.000 đồng, đề nghị buộc các bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền trên.

Công bố lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt có nội dung như các bị cáo khai nhận tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương trong phần luận tội, trên cơ sở phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58, Điều 91, khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đỗ Đức M từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58, Điều 91, khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đào Quang V 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 56, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Chu H my 24 đến 30 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp hình phạt 18 tháng tù treo tại Bản án số 03 ngày 09/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng thành 18 tháng tù giam, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 91, khoản 1 Điều 101, Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Tuấn H 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Gây rối trật tự công cộng”. Thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 91, khoản 1 Điều 101, Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến Đ từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng.

Căn cứ khoản 1 Điều 323, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Hồng Đ từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại Hoàng Tuấn L không bị thương tích gì nên đề nghị HĐXX áp dụng Điều 590 Bộ luật dân sự không chấp nhận yêu cầu bồi thường khoản tiền tổn thất tinh thần và tiền mua thuốc theo hóa đơn người bị hại cung cấp tại phiên tòa vì không có căn cứ pháp luật;

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Đức M trình bày quan điểm bào chữa: Không tranh luận với Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội mang tính chất tự phát không có ý thức từ trước, bản thân là người chưa thành niên nhận thức còn hạn chế, đã chủ động bồi thường khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Thực tế sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã chủ động mang chiếc xe đã chiếm đoạt để trả lại cho bị hại, nhưng trên đường đi trả xe thì bị cơ quan công an bắt. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Đào Quang V trình bày quan điểm bào chữa: Đồng ý với tội danh và điều luật truy tố đối với bị cáo. Nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nguyên nhân, tính chất vai trò của từng bị cáo một cách toàn diện; bị cáo Việt tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức, tính chất có mức độ không trực tiếp chiếm đoạt tài sản, hoàn toàn tự phát không vì động cơ vụ lợi, bị cáo là người chưa thành niên nhận thức còn hạn chế, đã chủ động bồi thường khắc phục hậu quả, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức, có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên đề nghị áp dụng Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội.

Người bào chữa cho bị cáo Phan Tuấn H và Trương Hồng Đ trình bày quan điểm bào chữa: Đồng ý về tội danh và điều luật truy tố đối với các bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào nhân thân, tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo có mức độ đều là người chưa thành niên. Bị cáo Phan Tuấn H tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức đã bồi thường khắc phục hậu quả và được người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, nên đề nghị cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Trương Hồng Đ nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên đề nghị Hội đồng xét xử có thể cho bị cáo được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định tại Điều 36 Bộ luật Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình các bị cáo đã chủ động nộp tiền tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An Dương để bồi thường theo yêu cầu của người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nên không đề nghị Tòa án xem xét. Riêng đối với người bị hại Hoàng Tuấn L còn yêu cầu bồi thường thêm khoản tiền tổn thất về tinh thần là 49.736.000 đồng, tiền mất thu nhập là 112.500.000đồng, và tại phiên tòa còn xuất trình 08 hóa đơn mua thuốc, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu trên của bị hại vì: Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 376 ngày 05/8/2020 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Anh Hoàng Tuấn L bị vết xây xước da nông vùng má phải, cổ phải, cánh tay trái, vùng lưng và vết bầm tím vùng sau vai trái không ảnh hưởng chức năng đã ổn định, sẽ khỏi hoàn toàn, không để lại sẹo, không đánh giá tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể. Bị hại không phải nằm điều trị tại cơ sở y tế một ngày nào; các hóa đơn mua thuốc xuất trình đều không có dấu của cơ sở bán thuốc và không có chỉ định của bác sĩ.

Sau khi nói lời sau cùng, các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V, Chu H my, Phan Tuấn H, Nguyễn Tiến Đ và Trương Hồng Đ ăn hối cải và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

[2] Hội đồng xét xử xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đủ căn cứ kết luận:

[2.1] Tối ngày 03/7/2020, tại tổ 4, thị trấn An Dương, huyện An Dương, Hải Phòng, các bị cáo Đỗ Đức M và Đào Quang V có hành vi dùng đao, kiếm, gậy cùng đồng bọn tấn công anh Hoàng Tuấn L chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 15B3-608.09 trị giá 27.500.000đồng và tài sản trong cốp xe (gồm 02 chiếc mũ bảo hiểm nửa đầu màu trắng, đen, đã qua sử dụng trị giá 28.000 đồng; 01 áo mưa màu xám đã qua sử dụng trị giá 24.500 đồng; 01 tai nghe blutooth đã qua sử dụng trị giá 605.000 đồng; 01 áo phông đỏ đã qua sử dụng trị giá 15.500 đồng; 01 túi vải màu xanh đã qua sử dụng trị giá 31.500 đồng; 01 Gương chiếu hậu xe máy bên trái, đã qua sử dụng trị giá 10.000 đồng); tổng giá trị 714.000 đồng. Tổng giá trị tài sản các bị cáo Đỗ Đức M và Đào Quang V đã chiếm đoạt của anh Hoàng Tuấn L là 28.214.000đồng nên hành vi của các bị cáo Đỗ Đức M và Đào Quang V đã phạm vào tội “Cướp tài sản” quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự.

[2.3] Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo Đỗ Đức M và Đào Quang V đã có hành vi dùng đao, kiếm, gậy tấn công bị hại làm cho bị hại lâm vào tình thế không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản của bị hại như nêu ở trên. Đao, kiếm, gậy là phương tiện nguy hiểm, sử dụng đao, kiếm, gậy tấn công người khác có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của người bị tấn công. Như vậy hành vi của các bị cáo Đỗ Đức M và Đào Quang V đã vi phạm điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự "Sử dụng phương tiện nguy hiểm".

[2.4] Đối với các bị cáo Chu Hùng M, Phan Tuấn H và Nguyễn Tiến Đ sử dụng xe mô tô mang theo hung khí chạy trên địa phận thị trấn An Dương, huyện An Dương, Hải Phòng đã đập phá gây thiệt hại cho xe mô tô BKS 15B3-608.09 của anh Hoàng Tuấn L và xe mô tô BKS 15B2-713.78 của anh Phạm Văn V đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội vào tối ngày 03/7/2020 nên hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Gây rối trật tự công cộng”. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đã có hành vi sử dụng hung khí, có hành vi phá phách nên đã vi phạm điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.

[2.5] Bị cáo Trương Hồng Đ không hứa hẹn trước và biết rõ chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 15B3-608.09 là tài sản của Đỗ Đức M do phạm tội mà có nhưng vẫn cất giữ chiếc xe trên cho Mạnh nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, vi phạm khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

[3] Xét đối với hành vi Cướp tài sản của các bị cáo Đỗ Đức M và Đào Quang V có tính chất rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý hoang mang lo sợ, gây dư luận xấu ở địa phương. Đối với hành vi Gây rối trật tự công cộng của các bị cáo Chu Hùng M, Phan Tuấn H và Nguyễn Tiến Đ có tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh, quy tắc sống và gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của mọi người ở nơi công cộng và gây thiệt hại về sức khoẻ và tài sản của người khác, làm mất trật tự an ninh địa phương. Đối với hành vi Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có của bị cáo Trương Hồng Đ tuy có tính chất ít nghiêm trọng hơn, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội. Do vậy đối với hành vi phạm tội của các bị cáo đều cần phải xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V, Chu Hùng M đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho anh Hoàng Tuấn L; các bị cáo Chu Hùng M, Phan Tuấn H và Nguyễn Tiến Đ đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho anh Phạm Văn V nên các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V, Chu Hùng M, Phan Tuấn H và Nguyễn Tiến Đ đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Trương Hồng Đ phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo Đức được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Chu Hùng M có ông ngoại được tặng huân chương kháng chiến; bị cáo Đỗ Đức M có ông bà nội được tặng huân chương kháng chiến nên các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Vụ án có đồng phạm trong tội Cướp tài sản và tội Gây rối trật tự công cộng. Hội đồng xét xử phân hóa vai trò của các bị cáo như sau:

[6.1] Đối với hành vi Cướp tài sản của các bị cáo Đỗ Đức M và Đào Quang V: Đỗ Đức M là người cầm gậy golf trực tiếp tấn công anh Hoàng Tuấn L, khi anh L bỏ chạy, Mạnh đã nổ máy xe của anh L đi nhằm chiếm đoạt tài sản nên xác định bị cáo M có vai trò chính trong vụ án. Bị cáo Đào Quang V đồng phạm giúp sức, tiếp nhận ý chí từ Mạnh, bị cáo là người chở bị cáo Đỗ Đức M, cùng với bị cáo Đỗ Đức M chiếm đoạt xe của anh L và tìm cách tiêu thụ tài sản nên bị cáo Việt có vai trò thấp hơn bị cáo Mạnh.

[6.2] Đối với hành vi Gây rối trật tự công cộng của các bị cáo Chu H my, Phan Tuấn H và Nguyễn Tiến Đ: Các bị cáo Chu Hùng M, Phan Tuấn H và Nguyễn Tiến Đ đều dùng hung khí và có hành vi phá phách xe của anh Hoàng Tuấn L và xe của anh Phạm Văn V gây thiệt hại cụ thể: Bị cáo Chu Hùng M có hành vi dùng kiếm chém Đức M và chém 3 nhát vào xe của anh L, đồng thời dùng kiếm đập phá xe của anh V; Bị cáo Phan Tuấn H có hành vi dùng kiếm đập phá xe máy và chém vào má và ngực anh L. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đều là bộc phát, không có sự phân công bàn bạc từ trước nên xác định vai trò đồng phạm của của bị cáo Phan Tuấn H thấp hơn Chu Hùng M và cao hơn Nguyễn Tiến Đ.

[7] Về việc xử lý hình sự đối với các bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V, Phan Tuấn H, Nguyễn Tiến Đ và Trương Hồng Đ khi thực hiện hành vi phạm tội đều chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng Điều 91 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo. Các bị cáo Đỗ Đức M và Đào Quang V thực hiện hành vi phạm tội đều khi đủ 14 tuổi và dưới 16 tuổi nên mặc dù hành vi phạm tội của các bị cáo có tính chất rất nghiêm trọng nhưng cần áp dụng khoản 2 Điều 101 BLHS để lượng hình phạt đối với các bị cáo. Các bị cáo Phan Tuấn H, Nguyễn Tiến Đ và Trương Hồng Đ khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo đều đã đủ 16 tuổi nhưng dưới 18 tuổi nên khi lượng hình cần áp dụng khoản 1 Điều 101 đối với các bị cáo. Đối với bị cáo Chu Hùng M khi phạm tội bị cáo đang phải chấp hành bản án số 03 ngày 09/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng với hình phạt là 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản, thời gian thử thách 36 tháng (khi phạm tội Mạnh 17 tuổi 11 tháng 01 ngày). Theo quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự bị cáo đang trong thời gian thử thách lại phạm tội mới nên buộc phải chấp hành hình phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của bản án trước thành 18 tháng tù giam và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự.

[8] Từ nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào nhân thân, vai trò, tính chất hành vi phạm tội xét thấy cần phải xử phạt nghiêm khắc các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V và Chu Hùng M, bắt các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của mỗi bị cáo mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung. Các bị cáo Phan Tuấn H và Nguyễn Tiến Đ đều có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự; Xét nhân thân, vai trò, tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo Phan Tuấn H, Nguyễn Tiến Đ và Trương Hồng Đ thấy không cần thiết cách ly xã hội mà cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng có đủ tác dụng giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm theo quy định theo Điều 65 Bộ luật Hình sự.

[9] Về trách nhiệm dân sự:

Anh Hoàng Tuấn L yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản không thu hồi được và những tài sản trong cốp xe là 1.534.000 đồng, mua thuốc chữa các vết thương là 480.000 đồng, thiệt hại của xe và sửa xe là 8.250.000 đồng = 10.264.000 đồng, tiền bồi thường tổn thất tinh thần là 49.736.000 đồng. Tổng cộng 60.000.000 đồng, tiền mất thu nhập từ tháng 7/2020 đến tháng 9/2021 là 112.500.000đồng do phải nghỉ làm ở nhà. Ghi nhận việc các bị cáo đã tự nguyện nộp tiền tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An Dương để bồi thường, khác phục hậu quả cụ thể: Bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V đã tự nguyện nộp 2.100.000 đồng để bồi thường thiệt hại tài sản, mua thuốc cho anh L. Bị cáo Chu Hùng M đã tự nguyện nộp số tiền 10.000.000 đồng bồi thường cho anh L, (gồm tiền sửa xe và mua thuốc điều trị), tổng cộng là 12.100.000 đồng để tiền bồi thường và khắc phục hậu quả cho bị hại Linh (Theo biên lai thu số 0003894; 0003895; 0003897 ngày 22/7/2021) tại Chi cục thi hành án. Do vậy bị hại Hoàng Tuấn L được nhận lại toàn bộ số tiền trên tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An Dương.

[9.1] Đối với yêu cầu bồi thường về tổn thất tinh thần là 49.736.000 đồng, tiền mất thu nhập do phải nghỉ làm để điều trị từ tháng 7/2020 đến tháng 9/2021 là 7.500.000đồng/tháng x 15 tháng = 112.500.000đồng; và tại phiên tòa bị hại xuất trình Sổ khám bệnh của Phòng khám đa khoa Quán Toan kèm theo 8 hóa đơn bán lẻ (ghi tiền mua thuốc) không ghi tên, địa chỉ của của đơn vị bán hàng với số tiền ghi trên các hóa đơn là 18.280.000 đồng. Xét thấy theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 376 ngày 05/8/2020 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Anh Hoàng Tuấn L bị vết xây xước da nông vùng má phải, cổ phải, cánh tay trái, vùng lưng và vết bầm tím vùng sau vai trái không ảnh hưởng chức năng đã ổn định, sẽ khỏi hoàn toàn, không để lại sẹo, không đánh giá tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể. Thực tế bị hại cũng không phải điều trị thương tích tại cơ sở y nào. Do vậy yêu cầu bồi thường tiền tổn thất về tinh thần và tiền mua thuốc theo hóa đơn bán lẻ của bị hại và tiền mất thu nhập do phải nghỉ làm việc để điều trị là không có căn cứ chấp nhận.

[9.2] Đối với anh Phạm Văn V yêu cầu bồi thường tiền mua thuốc, sửa xe là 4.500.000 đồng và tiền bồi thường tinh thần là 5.500.000 đồng. Tổng 10.000.000 đồng. Các bị can Chu Hùng M, Nguyễn Tiến Đ và Phan Tuấn H đã bồi thường cho anh V số tiền trên, anh V không còn yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9.3] Anh Nguyễn Thanh T thương tích đã khỏi nên không yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho các bị cáo: Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đề nghị của các Luật sư bào chữa cần xem xét nguyên nhân, tính chất hành vi và vai trò tham gia của từng bị cáo đồng thời cho các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V, Phan Tuấn H, Nguyễn Tiến Đ và Trương Hồng Đ được hưởng tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Không chấp nhận đề nghị của luật sư cho bị cáo Đào Quang V được hưởng án treo; bị cáo Trương Hồng Đ được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.

[11] Về xử lý vật chứng:

Xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 15B3-608.09 qua xác minh chủ sở hữu là Hoàng Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1998, địa chỉ: thôn C, xã N, An Dương, Hải Phòng (là anh trai của Hoàng Tuấn L), Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh Tuấn A nên không xét.

Xe mô tô BKS 15B3-585.51 qua xác minh chủ sở hữu là Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1983, địa chỉ: Số 19/123 L, phường C, quận Ngô Quyền, Hải Phòng (là bác của Nguyễn Hoàng Đình T), Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh Nguyễn Tuấn A.

Xe mô tô BKS 15B2-713.78 anh Phạm Văn V sử dụng qua xác minh là của ông Phạm Văn T, sinh năm 1977, địa chỉ: thôn T, xã Đ, An Dương, Hải Phòng (là bố của V). Ngày 03/7/2020, anh V lấy chiếc xe trên đi và sau khi xảy ra sự việc nhờ một người bạn tên T (chưa rõ lai lịch địa chỉ) sửa xe hộ hết 2.500.000 đồng. Tháng 8/2020, ông T đã bán chiếc xe trên cho một người tên Đức (chưa rõ lai lịch địa chỉ) nên không thu hồi được chiếc xe trên để định giá phần hư hỏng của chiếc xe.

02 lọ tinh dầu, 01 áo mưa màu xám, 01 áo phông màu đỏ, 01 gương xe mô tô bên trái, 01 túi vải màu xanh, 01 sạc pin điện thoại, 01 mũ bảo hiểm màu đen, 01 mũ bảo hiểm màu trắng, 01 tai nghe bluethooth, 01 giấy chính sách bảo hiểm xe máy của Hoàng Nguyễn Tuấn Anh, 01 sách hướng dẫn sử dụng của Honda có giá trị sử dụng không lớn và đã được các bị cáo bồi thường giá trị bằng tiền nên tịch thu tiêu hủy.

01 đao bằng kim loại dài 1,65m dưới cán đao quấn băng dính đỏ kích thước dài 15cm, giữa phần cán đao và thân đao có ren xoáy tháo lắp được, ½ phần gậy golf bằng kim loại sáng màu dài 44cm là các vật chứng của vụ án được các bị cáo sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

01 xe mô tô BKS 16M6-8742, 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Đặng Xuân N là xe của mẹ bị cáo Đào Quang V mua từ năm 2018, việc bị cáo sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội gia đình không có lỗi, nên cần trả lại cho chủ sử dụng hợp pháp bà Đỗ Thị Diệu T.

[12] Đối với Nguyễn Việt A, Nguyễn Hoàng Đình T, Nguyễn Trung Hiếu, Lê Nguyễn Gia B, Trần Sỹ Bình M, Vũ Minh Đ, Nguyễn Hoàng H: Hành vi của các đối tượng có dấu hiệu của tội Gây rối trật tự công cộng. Tuy nhiên, các đối tượng đều dưới 16 tuổi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự.

Đối với Dương Nam T có hành vi gây rối trật tự công cộng và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng dưới 16 tuổi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự.

Đối với các đối tượng Nam A, N ngát, N nghiện và đối tượng tên A, hiện chưa xác định được lý lịch và địa chỉ cụ thể nên tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

[13] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17, Điều 58; Điều 91; khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đỗ Đức M 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án, trừ cho bị cáo các ngày bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/7/2020 đến ngày 22/9/2020.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17, Điều 58; Điều 91; khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đào Quang V 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày đi thi hành án, trừ cho bị cáo các ngày bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/7/2020 đến ngày 22/9/2020.

Tiếp tục áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Đỗ Đức M và Đào Quang V đến thời điểm đi chấp hành án.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 56; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Chu Hùng M 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp hình phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo tại Bản án số 03 ngày 09/01/2020, của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng thành 18 tháng tù giam, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/6/2021, trừ cho bị cáo các ngày tạm giữ, tạm giam của bản án trước từ ngày 07/8/2019 đến ngày 23/10/2019.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 54, Điều 91, khoản 1 Điều 101; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Tuấn H 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời gian thử thách là 36 (Ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 54, Điều 91, khoản 1 Điều 101; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến Đ 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Căn cứ khoản 1 Điều 323, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Hồng Đ 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” Thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phan Tuấn H cho Ủy ban nhân dân phường Hồ Nam, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Giao bị cáo Nguyễn Tiến Đ cho Ủy ban nhân dân phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Giao bị cáo Trương Hồng Đ cho Ủy ban nhân dân phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Hoàng Tuấn L được nhận lại số tiền 12.100.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An dương, thành phố Hải Phòng (theo các Biên lai thu tiền số 0003894 ngày 22/7/2021; 0003895 ngày 22/7/2021 và 0003897 ngày 22/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương).

Không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại tiền tổn thất tinh thần 49.736.000đồng, tiền mất thu nhập là 112.500.000đồng và số tiền hóa đơn mua thuốc là 18.280.000đồng của bị hại Hoàng Tuấn L.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 02 lọ tinh dầu, 01 áo mưa màu xám, 01 áo phông màu đỏ, 01 gương xe mô tô bên trái, 01 túi vải màu xanh, 01 sạc pin điện thoại, 01 mũ bảo hiểm màu đen, 01 mũ bảo hiểm màu trắng, 01 tai nghe bluethooth, 01 giấy chính sách bảo hiểm xe máy của Hoàng Nguyễn Tuấn Anh, 01 sách hướng dẫn sử dụng của Honda.

Tịch thu tiêu hủy 01 đao bằng kim loại dài 1,65m dưới cán đao quấn băng dính đỏ kích thước dài 15cm, giữa phần cán đao và thân đao có ren xoáy tháo lắp được, ½ phần gậy golf bằng kim loại sáng màu dài 44cm là các vật chứng của vụ án được các bị cáo sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

Trả lại cho bà Đỗ Diệu Thúy 01 xe mô tô BKS 16M6-8742 và 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Đặng Xuân Nguyên.

(Đặc điểm chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/8/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm. Đối với các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V, Phan Tuấn H và Trương Hồng Đ, người đại diện hợp pháp của các bị cáo phải nộp thay án phí sơ thẩm cho các bị cáo.

Các bị cáo, bị hại, người bào chữa cho các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V, Phan Tuấn H, Trương Hồng Đ; người đại diện hợp pháp của các bị cáo Đỗ Đức M, Đào Quang V, Phan Tuấn H, Nguyễn Tiến Đ và Trương Hồng Đ có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 về tội cướp tài sản, gây rối trật tự công cộng

Số hiệu:71/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về