Bản án 71/2021/HSST ngày 06/07/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TC, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 71/2021/HSST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân huyện TC xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 89/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2021/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 6 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 20/2021/SHST-QĐ, ngày 15 tháng 6 năm 2021, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Lò Thị T, tên gọi khác: Không; sinh năm 1995 tại huyện TC, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện TC, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn M, sinh năm 1963 và bà Lò Thị H, sinh năm 1965; bị cáo có chồng là Quàng Văn N, sinh năm 1987 và 01 con, sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 02 tháng 02 năm 2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Quàng Văn N; sinh năm 1987; nơi cư trú: bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện TC, tỉnh Sơn La; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 00 phút ngày 02/02/2021, Tổ công tác Công an xã Thôm Mòn, huyện TC, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu bản Mòn, xã Thôm Mòn, huyện TC, phát hiện bắt quả tang Lò Thị T có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vất chứng thu giữ: 01 (một) túi nilon màu hồng bên trong có chứa 193 (một trăm chín mươi ba) viên nén hình trụ màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (theo Lò Thị T khai là ma túy tổng hợp); Một chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe VISION, biển kiểm soát 26M1-148.49; Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ.

Hồi 17 giờ 00 phút ngày 02/02/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niên phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu giám định, kết quả: 193 (một trăm chín mươi ba) viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp có khối lượng 20,35 gam. Trích 05 (năm) viên nén màu hồng có khối lượng 0,52 gam, ký hiệu T1 gửi giám định.

Kết luận giám định số: 464/KL ngày 04/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,52 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ 20,35 gam, loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định: chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định đã sử dụng đến trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra Lò Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 20 giờ, ngày 31/01/2021, Lò Thị T đang chơi ở bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì gặp hai người đàn ông dân tộc Mông (Thu không biết tên, địa chỉ cụ thể ở đâu). Gặp Thu hai người đàn ông đó hỏi “Em có mua ma túy không, nếu mua anh bán cho 01 (một) túi hồng phiến với giá 3.000.000đ”. Thu đồng ý và bảo hai đàn ông đó đứng đợi để Thu về nhà lấy tiền. Thu về nhà lấy tiền và quay lại chỗ hai người đàn ông, Thu đưa cho hai người đàn ông 3.000.000đ, hai người đàn ông cầm tiền và đưa cho Thu 01 (một) túi nilon màu hồng bên trong có chứa viên hồng phiến. Sau đó Thu đem gói ma túy mua được về cất ở gốc cây đằng sau nhà để có ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Đến khoảng 10 giờ, ngày 02/02/2021, Thu đang ở nhà thì có anh Lò Văn H; nơi cư trú: bản Mòn, xã Thôm Mòn, huyện TC gọi điện cho Thu nhờ Thu mua 01 (một) túi hồng phiến, Thu đồng ý và bảo với anh Hà là 01 (một) túi hồng phiến giá 4.000.000đ, anh Hà đồng ý và bảo Thu đem túi hồng phiến cho anh Hà rồi sẽ trả tiền. Sau đó Thu đi lấy túi hồng phiến ở dưới gốc cây mà Thu cất từ hôm trước cho vào túi áo khoác đằng trước bên trái và điều khiển xe đem ma túy đến bán cho anh Hà.

Khi Thu đi đến khu vực bản Mòn, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu thì bị tổ công tác Công an xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu yêu cầu kiểm tra ma túy, quá trình kiểm tra đã phát hiện, bắt quả tang và thu giữ cùng vật chứng.

Tại bản Cáo trạng số: 67/CT- VKSTC ngày 20 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC đã truy tố bị cáo Lò Thị T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lò Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện TC đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện TC giữ quyền công tố tại pH toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Thị T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Thị T từ 10 (mười) năm đến 11 (mười một) năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 19,83 gam Methamphetamine ký hiệu T2, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, 01 túi nilon màu trắng.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ.

Chấp nhận ngày 26/4/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 26M1-148.49 cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Quàng Văn N.

Bị cáo Lò Thị T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Lò Thị T thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có ý kiến: Anh Quàng Văn N thừa nhận đã nhận lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA và không có yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TC, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Ngày 31/01/2021 bị cáo Lò Thị T đã có hành vi cất giữ trái phép 20,35 gam chất ma túy, loại Methamphetamine trong người với mục đích để bán kiếm lời thì bị phát hiện, bắt quả tang tại bản Mòn, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 30 phút ngày 02/02/2021; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 464/KL ngày 04/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.

[3] Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái phép 20,35 gam chất ma túy, loại Methamphetamine trong người với mục đích để bán kiếm lời của bị cáo Lò Thị T đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Bị cáo Lò Thị T mục đích mua bán để hưởng lợi, thu lợi bất chính. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ông nội của bị cáo được Nhà nước tặng huân chương kháng chiến hạng ba là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Lò Thị T khai mua của hai người đàn ông dân tộc Mông không biết họ tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 31/01/2021. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, buộc bị cáo Lò Thị T phải chịu toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[7] Đối với Lò Văn H, sinh năm 1985; nơi cư trú: bản Mòn, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La là người bị cáo Lò Thị T khai nhận đã hỏi mua ma túy của Thu với giá 4.000.000đ vào ngày 02/02/2021. Quá trình điều tra cơ quan CSĐT Công an huyện TC đã tiến hành nhận dạng, truy tìm đối tượng, nhưng hiện nay Hà không có mặt tại địa phương, gia đình và chính quyền địa phương không biết Hà đi đâu, làm gì. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu tách ra để xử lý sau.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với 19,83 gam Methamphetamine ký hiệu T2 còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, 01 túi nilon màu trắng là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị cần tịch thu tiêu hủy căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ thu giữ của bị cáo Lò Thị T là công cụ dùng vào việc phạm tội cần tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 26M1-148.49 màu sơn đen xám thu giữ của bị cáo Lò Thị T vào ngày 02/02/2021. Quá trình điều tra xác định là tài sản chung của gia đình bị cáo, việc bị cáo sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, gia đình bị cáo không biết và không liên quan gì đến hành vi phạm tội của bị cáo. Anh Nhất đã có đơn xin xe. Do vậy ngày 26/4/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện TC, tỉnh Sơn La đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Quàng Văn N là có căn cứ, đúng pháp luật căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lò Thị T phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt 

Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lò Thị T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Thị T 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 02/02/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Thị T- Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 02/02/2021. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 023707 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện TC. Bên trong có: 01 mảnh nilon màu hồng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Một túi nilon màu trắng bên trong có chứa 188 viên nén màu hồng có khối lượng 19,83 gam.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/5/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TC và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TC).

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ có số IMEI 1: 865222048135739, số IMEI 2: 865222048135721, đã qua sử dụng cũ.

Chấp nhận ngày 26/4/2021 Cơ quan điều tra Công an huyện TC đã trả lại anh Quàng Văn N một chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 26M1-148.49.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Lò Thị T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Lò Thị T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Quàng Văn N được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2021/HSST ngày 06/07/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về