Bản án 71/2021/HS-PT ngày 18/01/2021 về tội giết người

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 71/2021/HS-PT NGÀY 18/01/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 90/2020/TLPT- HS ngày 05/11/2020, do có kháng cáo của bị cáo Dương Văn T và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 26/09/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo: Dương Văn T, sinh ngày 26 tháng 12 năm 1995 tại Đà Nẵng; nơi cư trú: thành phố Đà Nẵng; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Dương Văn C và con bà Phạm Thị H; có vợ tên là Nguyễn Thị L và có 01 con sinh năm 2017; gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con nhỏ nhất; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 12/6/2020, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Dương Văn T: Bà Lê Thị Hồng T-Luật sư, Văn phòng luật sư T, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn C sinh năm 1968. Trú tại: xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng (chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1971; trú tại: xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị L: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1990; trú tại: Thôn L 2, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do mâu thuẫn vợ chồng với nhau trong cuộc sống gia đình nên chị Nguyễn Thị L là vợ của Dương Văn T bỏ về nhà cha ruột là ông Nguyễn Văn C để ở. Sau nhiều lần T gọi chị L quay về lại với gia đình, nhung chị L không về, nên khoảng 13 giờ 40 phút ngày 12/6/2020 T gọi điện thoại cho ông C để nhờ ông C khuyên chị L về sống lại với T nhung ông C không khuyên mà còn chửi bới nên T tức giận. T đi sang nhà chị ruột là Dương Thị D (cách nhà T 02 căn nhà) lấy ra 02 con dao: 01 con dao bầu dài 30cm, 01 con dao bản to dài 48,5cm và kẹp trên baga xe mô tô nhãn hiệu DAME màu nâu, biển kiểm soát 43H2- 5033 rồi điều khiển đến nhà chị Nguyễn Thị D là chị ruột của L, sát cạnh nhà ông C tại thôn L 2, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng với mục đích tìm và dùng dao đe dọa chị L về lại với T. Khi đến nhà chị D, lúc này khoảng 14 giờ cùng ngày, T để xe ngoài cổng và cầm 02 con dao trên tay trái đi vào trong nhà tìm chị L nhưng không thấy ai. Lúc này T nghe trong phòng vệ sinh có tiếng động nên T đi đến xem thì thấy ông C đang ở trong phòng vệ sinh dội nước, mặt quay vào trong, lưng quay ra ngoài. T cho rằng trước đó ông C chửi T, nên T cầm dao bầu trên tay trái (mũi dao hướng về phía sau) và con dao bản to bên tay phải, lúc này ông C hơi quay mặt lại nhìn T, thì T dùng con dao bầu đâm 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới làm con dao lút hết lưỡi dài 20cm dính vào lưng ông C. T tiếp tục cầm dao bản to trên tay phải chém một nhát theo hướng từ trên xuống dưới vào đầu ông C. Theo phản xạ, ông C quay người lại đưa tay phải lên đỡ làm nhát chém trúng vào đầu và tay ông C, nhát chém mạnh làm đứt tay, đứt xương. Sau đó T tiếp tục chém thêm nhiều nhát nữa, trong đó có một nhát trúng vào vai ông C, ông C la lên “Bớ làng, giết người” thì T cầm dao bản to bỏ chạy ra xe máy, kẹp con dao trên xe và điều khiển xe chạy về nhà. Trên đường chạy về nhà T làm rơi con dao ở đoạn đường DH2, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. Đến khoảng 15 giờ 10 phút, T đến công an đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

Tại Bản kết luận giám định số: 48 ngày 15/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận: Nguyên nhân chết của ông Nguyễn Văn C là do mất máu, suy hô hấp, trụy tim mạch; Nguyễn Văn C chết do vật có bản mỏng, một lưỡi, một sóng, mũi nhọn, gây đứt mạch máu, thủng phổi.

Tại Bản kết luận giám định số: 650 ngày 03/7/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, kết luận: Trên cây dao (con dao bản to) có máu của Nguyễn Văn C.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 26/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Dương Văn T phạm tội “Giết người”. Xử phạt: Dương Văn T mức án tử hình.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Dương Văn T để đảm bảo việc thi hành án.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, bị cáo Dương Văn T có quyền gửi đơn xin Chủ tịch nước ân giảm án tử hình.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 02/10/2020, bị cáo Dương Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 08/10/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng kháng nghị phúc thẩm tại quyết định số 01/QĐ-VKS-P2, kháng nghị phần hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HSST ngày 26 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Dương Văn T trình bày giữ nguyên kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng trình bày giữ nguyên quyết định kháng nghị.

Luật sư Lê Thị Hồng T trình bày và bị cáo T trình bày bổ sung, thể hiện: Nguyên nhân sự việc xảy ra là do chị Nguyễn Thị L là vợ của bị cáo bỏ nhà đi, không có trách nhiệm với chồng và con nhỏ. Theo bị cáo thì chị L có quan hệ bất chính với người khác và thường xuyên bỏ nhà đi về nhà ông C là bố đẻ để ở. Bị cáo T đã chủ động nhiều lần điện thoại cho vợ là chị L để về chung sống và cùng nuôi dạy con, nhung chị L không về. Từ đó, T ghen và có điện thoại nhờ ông C nói chị L về để cùng bị cáo chung sống nuôi con nhỏ, nhung ông C la mắng bị cáo và dẫn đến việc bị cáo ức chế. Việc bị cáo T cầm dao sang nhà ông C là mục đích tìm và đe dọa chị L, để chị L về nhà cùng bị cáo. Tuy nhiên, do không gặp chị L, mà thấy ông C nên bị cáo đã không làm chủ được bản thân và dùng hai con dao đâm, chém ông C, dẫn đến hậu quả ông C tử vong. Sau khi phạm tội, bị cáo về nhà nói cho mẹ bị cáo biết sự việc và chủ động đến Công an trình báo. Bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, hối hận về hành vi phạm tội của mình. Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, cha mới đi tù về, mẹ bệnh tật không lao động được và phải nuôi bà ngoại và anh trai của bị cáo bị bệnh tim. Hiện nay, con nhỏ của bị cáo do bà nội nuôi dưỡng. Gia đình bị cáo có đến thăm hỏi, động viên và bồi thường cho đại diện bị hại nhưng bị từ chối. Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo đã bồi thường cho đại diện bị hại 40.000.000đ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, kính mong Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo và chấp nhận kháng cáo, kháng nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Hành vi phạm tội của bị cáo đã tước đi mạng sống của bị hại là đặc biệt nghiêm trọng. Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Dương Văn T về tội “Giết người” là có căn cứ, đúng tội. Sau khi phạm tội, bị cáo tác động gia đình bồi thường cho đại diện bị hại 40.000.000đ và đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Sau khi phạm tội, bị cáo đến Công an trình báo; quá trình điều tra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có đến gia đình bị hại bồi thường nhưng không được chấp nhận. Bị cáo có nhân thân tốt, hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải nuôi con nhỏ, vợ bị cáo bỏ đi, không có trách nhiệm với chồng con. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và kháng nghị, giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 02/10/2020, bị cáo Dương Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 08/10/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng kháng nghị phúc thẩm tại quyết định số 01/QĐ-VKS-P2, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Như vậy, kháng cáo và kháng nghị nêu trên là trong thời hạn luật định, Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Dương Văn T là con rể ông Nguyễn Văn C, hai người không có mâu thuẫn với nhau. Dương Văn T và chị Nguyễn Thị L là vợ chồng và có mâu thuẫn nhau, chị L về nhà ông Nguyễn Văn C là cha đẻ sống, mặc dù bị cáo T đã nhiều lần nói chị L về để chung sống và cùng nuôi con nhưng chị L không về. Do đó, bị cáo T đi từ nhà của mình sang nhà ông Nguyễn Văn C để tìm và nói chuyện với vợ là chị Nguyễn Thị L, để chị L về nhà chung sống cùng chồng con, khi đi T mang theo 02 con dao. Đến khoảng 14 giờ ngày 12/6/2020, T đến nhà ông C tại thôn L 2, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng nhưng không gặp chị L, tại đây T gặp ông Nguyễn Văn C thì T dùng 02 con dao thực hiện hành vi đâm, chém nhiều nhát vào lưng, đầu, tay, vai ông Nguyễn Văn C. Hậu quả ông Nguyễn Văn C tử vong. Sau khi phạm tội, bị cáo Dương Văn T đến Công an trình báo. Với hành vi phạm tội như nêu trên, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử và xử phạt Dương Văn T tử hình về tội “Giết người”.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Dương Văn T và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng:

- Về tội danh:

Bị cáo Dương Văn T dùng 02 con dao lưỡi bằng kim loại là hung khí nguy hiểm để đâm, chém nhiều nhát vào lưng, đầu, tay, vai ông Nguyễn Văn C, cụ thể: Con dao thứ nhất, Dương Văn T đâm ông Nguyễn Văn C từ phía sau vào lưng ông C, làm đứt cung sau xương sườn số 3,4,5,6, thủng phổi; con dao thứ hai, T chém nhiều nhát theo hướng từ trên xuống vào đầu ông C, ông C dùng tay đỡ thì trúng vào tay. Khi ông C khụy xuống, T tiếp tục chém vào vai ông C. Hành vi phạm tội của bị cáo Dương Văn T là có tính chất côn đồ và cố tình thực hiện tội phạm đến cùng. Bị cáo không những cố ý trực tiếp xâm phạm đến tính mạng bị hại, mà còn gây bức xúc trong dư luận về sự suy đồi đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc; gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an xã hội tại địa phương.

Tại Bản giám định số 48/GĐ-PY ngày 15/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng đã kết luận: Nguyên nhân chết của ông Nguyễn Văn C là do mất máu, suy hô hấp, trụy tim mạch; Nguyễn Văn C chết do vật có bản mỏng, một lưỡi, một sống, mũi nhọn gây đứt mạch máu, thủng phổi.

Tại Bản giám định số 650/C09C(Đ3) ngày 03/7/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng đã kết luận: Trên con dao có máu của Nguyễn Văn C.

Như vậy, hành vi của Dương Văn T đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Giết người”. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Về hình phạt:

Tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình, n) Có tính chất côn đồ”. Bị cáo Dương Văn T cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, do vậy bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, do đó đối với bị cáo cần phải xét xử nghiêm.

Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo Dương Văn T đã tự nguyện bồi thường cho đại diện bị hại số tiền 40.000.000đ, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Dương Văn T có nhiều tình tiết giảm nhẹ hình sự như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đến Công an trình báo; hoàn cảnh gia đình khó khăn, đã bồi thường một phần về trách nhiệm dân sự; bị cáo có nhân thân tốt, trình độ học vấn thấp; trước khi phạm tội phải nuôi con nhỏ. Xét thấy, chị Nguyễn Thị L là vợ bị cáo thực tế đã bỏ nhà đi, không có trách nhiệm với chồng và con nhỏ sinh năm 2017; trong khi bị cáo đã nhiều lần chủ động liên hệ và nói chị L về nhà để cùng chung sống nhưng chị L không về. Việc bị cáo cho rằng có điện thoại cho ông C (bị hại) để ông C tác động nói chị L quay về chung sống cùng bị cáo, nhưng ông C lại chửi bị cáo, mặc dù không có căn cứ để đối chất về sự việc này là có thật hay không. Nhưng liền sau khi điện thoại cho ông C, bị cáo cầm dao đến nhà ông C và thực hiện hành vi phạm tội là có sự ức chế nhất định của bản thân bị cáo về việc mong muốn chị L quay về chung sống nhưng không đạt được. Hội đồng xét xử thấy rằng cần cho bị cáo cơ hội sống để cải tạo thành người công dân tốt, nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, giảm hình phạt cho bị cáo Dương Văn T.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo bồi thường cho đại diện bị hại số tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng).

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận, nên Dương Văn T không phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Văn T và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HSST ngày 26/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

2. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Dương Văn T phạm tội “Giết người”. Xử phạt Dương Văn T mức hình phạt chung thân. Tiếp tục tạm giam bị cáo Dương Văn T để đảm bảo thi hành án.

3. Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự. Điều 591 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Dương Văn T phải bồi thường cho gia đình bị hại 139.000.000d (Một trăm ba mươi chín triệu đồng).

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Dương Văn T không phải chịu.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2021/HS-PT ngày 18/01/2021 về tội giết người

Số hiệu:71/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về