Bản án 71/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 71/2020/HS-ST NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 22 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:64/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Võ Duy T, sinh ngày: 18 tháng 8 năm 2001; tại: tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng KNKTT và chỗ ở hiện nay: Ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; cha Võ Duy N, sinh năm: 1971, mẹ Nguyễn Kim H, sinh năm 1974; vợ, con: chưa có; tiền án: không có, tiền sự: ngày 06-11-2019, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 15 tháng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”; nhân thân: ngày 17-02- 2016, bị Công an huyện B xử phạt hành vi hành chính: cảnh cáo; đối với hành vi trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08-10-2020 đến nay, (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 10 phút ngày 08-10-2020, tại đoạn đường đất vắng người qua lại thuộc ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, Công an huyện B phối hợp cùng Công an xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh bắt quả tang Võ Duy T đang cất giấu 01 (một) bịch nilon trong suốt hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể rắn trong suốt (nghi là chất ma túy) được cất giấu trong túi quần sau bên phải nên lập biên bản bắt quả tang, tạm giữ người và tang vật để điều tra làm rõ.

Qua quá trình điều tra đã kết luận: vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 08-10- 2020, Võ Duy T mượn xe mô tô biển số 70K3-5033 của anh Đặng Văn T, điều khiển xe một mình đến khu vực ấp B, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh gặp một người đàn ông tên T (không rõ lai lịch) xin một bịch chất ma túy để sử dụng.

Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 70K3-5033 đến đoạn đường vắng người qua lại thuộc ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh để sử dụng chất ma túy thì bị Công an dừng xe kiểm tra và bắt quả tang.

Kết luận giám định số: 1665/KL-KTHS ngày 10/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh xác định: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 (một) bịch nilon trong suốt, hàn kín (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy, là loại Methamphetamine, khối lượng 0,3034 gam.

Kết luận giám định số 1698/KL-KTHS ngày 18/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: số khung, số máy của xe mô tô biển số 70K3-5033, màu xanh, nhãn hiệu Damsan không bị đục sửa.

Vật chứng cơ quan điều tra thu giữ gồm:

- 01 (một) gói ma túy đá, được niêm phong số 1665/KL-KTHS.

- 01 (một) điện thoại di động hiêu Oppo, màu tím, số Imel1 863628049904273.

- 01 (một) xe mô tô biển số 70k3-5033, số 00012415, số khung: 012415, màu xanh, nhãn hiệu Đamsan.

Tại bản cáo trạng số: 64/CT/VKSBC ngày 12 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố Võ Duy T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Võ Duy T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Võ Duy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Duy T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Võ Duy T. Về xử lý vật chứng: Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Đối với người đàn ông tên T đưa ma túy cho T do không rõ nhân thân, lai lịch nên không làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

Đối với anh Đặng Văn T là chủ sở hữu xe mô tô biển số 70K3-5033, do không biết T mượn xe mô tô đi lấy ma túy để sử dụng, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh không đề nghị xử lý và trả lại xe mô tô cho anh Đặng Văn T là có căn cứ.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Võ Duy T, Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: ngày 08-10-2020, bị cáo T đã thực hiện hành vi tàng trữ 0,3034 gam chất ma túy, loại Methamphetamine trong túi quần sau bên phải, khi đến khu vực ấp B, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh định sử sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi này có đủ căn cứ kết luận bị cáo Võ Duy T phạm tội: “tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đối với người đàn ông tên T đưa ma túy cho T do không rõ nhân thân, lai lịch nên không làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

Đối với anh Đặng Văn T là chủ sở hữu xe mô tô biển số 70K3-5033, do không biết T mượn xe mô tô đi lấy ma túy để sử dụng, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh không đề nghị xử lý và trả lại xe mô tô cho anh Đặng Văn T là có căn cứ đúng quy định.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Võ Duy T, Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính xong.

[3] Hành vi của bị cáo: mang tính chất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần nghiêm trị để có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận. Do đó xét thấy cần áp dụng hình phạt tù giam để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội, biết chấp hành pháp luật.

Khi quyết định hình phạt có xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Không có Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần xem xét để giảm nhẹ một phần mức án cho bị cáo.

[4] Hình phạt bổ sung: bị cáo T không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo T.

[5] Về vật chứng: Hội đồng xét xử xét thấy:

- Đối với: 01 (một) gói ma túy đá, được niêm phong số 1665/KL-KTHS là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) 01 (một) điện thoại di động hiêu Oppo, màu tím, số Imel1 863628049904273 là tài sản của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

Đối với: 01 (một) xe mô tô biển số 70k3-5033, số 00012415, số khung:

012415, màu xanh, nhãn hiệu Đamsan là tài sản của anh Đặng Văn T, anh T đã nhận lại tài sản nên ghi nhận.

[6] Về án phí: Bị cáo Võ Duy T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Võ Duy T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Võ Duy T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08-10-2020.

2. Về vật chứng:

Căn cứ Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong, bên trong chứa 0,3034 gam chất ma túy loại Methamphetamine (kí hiệu M); theo Kết luận giám định số:

1665/KL-KTHS ngày 10-10-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh;

- Trả lại cho bị cáo T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo, màu tím, số Imel1 863628049904273.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19-11-2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Tây Ninh).

3. Về án phí: Căn cứ các Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Bị cáo T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 71/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về