TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 71/2020/HS-PT NGÀY 17/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 17 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 595/2019/TLPT-HS, ngày 23/12/2019 đối với bị cáo Trần Ngọc V do có kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc V đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 205/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo: Trần Ngọc V (tên gọi khác: Hùng Cá); giới tính: nam; sinh ngày: 02/02/1999, tại Thành phố Hồ Chí Minh; đăng ký thường trú: ấp CT, thị trấn MX, huyện MX, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở trước khi bị bắt: không nơi cư trú nhất định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 4/12; nghề nghiệp: không; Con ông Trần Văn N - sinh năm: 1954 và bà Trần Thị Ánh T - sinh năm: 1967; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: không.
Nhân thân: Ngày 03/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18 tháng.
Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 24/7/2019. (Có mặt tại phiên tòa) - Trong vụ án còn có bị cáo Trần Thanh L và bị hại Nguyễn Cường D đều không có kháng cáo, không bị kháng nghị và không có liên quan đến kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo V nên Hội đồng xét xử không triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 01/11/2017 Trần Thanh L và Trần Ngọc V chơi game tại lầu 1 của tiệm Internet Không Gian (địa chỉ: A11/4 ấp 2, xã Q, huyện Z, thành phố Hồ Chí Minh). Trong thời gian chơi game tại đây thì Trần Thanh L nhìn thấy ông Nguyễn Cường D (cũng đang chơi game tại đây) để chìa khóa xe Yamaha trên bàn chơi game nên nảy sinh ý định lấy chìa khóa xe để chiếm đoạt xe của ông Nguyễn Cường D. Lúc này, Trần Thanh L lấy chìa khóa xe của ông Duy và đi lại cửa sổ của tiệm game nhìn xuống chỗ để xe có 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter nên đi lại chỗ Trần Ngọc V đang chơi game và rủ Trần Ngọc V trộm cắp xe này để bán lấy tiền tiêu xài. Trần Ngọc V đồng ý và kêu Trần Thanh L xuống tầng trệt kiểm tra thêm 01 lần nữa để tránh trộm nhằm xe. Sau khi kiểm tra lại, Trần Thanh L và Trần Ngọc V đi đến gần nơi dựng xe mô tô hiệu Yamaha ExCiter biển số 62L1-114.07, Trần Ngọc V đứng che khuất tầm nhìn của ông Nguyễn Trọng Hiếu (là người quản lý tiệm Internet) để Trần Thanh L dùng chìa khóa đã lấy trước đó mở xe và đẩy lùi xe ra đường rồi cả hai lên xe đề máy bỏ chạy. Sau đó, cả hai mang xe mô tô chiếm đoạt của ông Nguyễn Cường D bán cho đối tượng tên Long (chưa rõ lai lịch) tại tiệm game bắn cá thuộc phường 14, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh được 5.000.000 đồng. Số tiền bán xe Trần Thanh L chia cho Trần Ngọc V 2.000.000 đồng, Trần Thanh L 3.000.000 đồng và cả hai sử dụng chơi game, tiêu xài cá nhân hết.
Ông Nguyễn Cường D phát hiện bị mất xe nên đến Công an xã Q, huyện Z trình báo. Công an xã đến hiện trường lập hồ sơ ban đầu, trích xuất hình ảnh từ camera an ninh của tiệm Internet Không Gian rồi chuyển vụ việc đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Z thụ lý theo thẩm quyền.
Ngày 19/6/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Z, thành phố Hồ Chí Minh nhận công văn của Công an quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh đề nghị tiếp nhận vật chứng là xe mô tô biển số 62L1-114.07 mà ông Nguyễn Cường D bị trộm để xử lý theo thẩm quyền.
Qua xử lý hình ảnh camera thu được tại tiệm Internet Không Gian, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Z xác được Trần Ngọc V, Trần Thanh L là người thực hiện hành vi chiếm đoạt xe mô tô biển số 62L1-114.07 của ông Nguyễn Cường D. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung nêu trên.
Căn cứ kết quả định giá tài sản số 1644/HĐĐG-TTHS ngày 17/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Z kết luận: trị giá xe mô tô biển số 62L1-114.07 bị chiếm đoạt là 19.800.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Trần Ngọc V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 205/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (tương ứng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015); các điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, đã sửa đổi, bổ sung năm 2009:
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/7/2019.
Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 25/11/2019, bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Trần Ngọc V thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xác định và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đưa ra ý kiến phát biểu: Sau khi xem xét tất cả lời khai, tình tiết trong hồ sơ vụ án, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất cũng như mức độ của hậu quả đã xảy ra. Từ đó, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và y án sơ thẩm.
Bị cáo Trần Ngọc V không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Ngày 15/11/2019, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm, đến ngày 25/11/2019, bị cáo có đơn kháng cáo yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, từ đó có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 01/11/2017, Trần Ngọc V cùng với Trần Thanh L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 62L1-114.07 của ông Nguyễn Cường D, trị giá tài sản bị chiếm đoạt qua định giá là 19.800.000 đồng.
Do đó, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, về việc áp dụng pháp luật thì xét mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định đối với tội “Trộm cắp tài sản” là 20 năm tù, trong khi đó mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định là tù chung thân. Như vậy, đối với các bị cáo trong vụ án này cần phải áp dụng Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử. Song, cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 để xét xử các bị cáo là chưa đúng tinh thần hướng dẫn tại Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội. Do vậy, kiến nghị cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
[3] Xét đơn kháng cáo của bị cáo:
Trong đơn kháng cáo và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Về hình phạt đã áp dụng đối với bị cáo, khi lượng hình thì Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu phạm, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, theo quy định tại các điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, đã sửa đổi bổ sung năm 2009. Việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ này là phù hợp nhưng cần áp dụng các điểm i, s Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 khi quyết định hình phạt.
Tại phiên tòa bị cáo không cung cấp thêm tình tiết, chứng cứ nào mới để làm cơ sở xem xét. Hội đồng xét xử phúc thẩm sau khi cân nhắc đến nhân thân người phạm tội, tính chất đồng phạm và vai trò của bị cáo trong vụ án, nhận thấy mức án 01 năm 06 tháng tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Từ đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về mức hình phạt, tuy nhiên cần sửa bản án về điều luật áp dụng.
[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa về việc không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên mức hình phạt.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc V và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 205/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh về mức hình phạt.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt Trần Ngọc V: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 24/7/2019.
3. Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và căn cứ Điều 22 và 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án, Bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 71/2020/HS-PT ngày 17/02/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 71/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về