TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE - TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 71/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 268/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2020 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/8/2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị M, sinh năm 1994; nơi cư trú: thôn ĐắK H, xã ĐắK D, huyện KN, tỉnh ĐN (vắng mặt)
2. Bị đơn: anh Văn Phước L; sinh năm 1993; nơi cư trú: đường Trương Định, phường K, thành phố BT, tỉnh BT (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị M trình bày:
Chị và anh L kết hôn vào năm 2016, hôn nhân do cả hai tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND phường K thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Sau kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc. Mâu thuẩn phát sinh nguyên nhân là do không hợp nhau và bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Anh chị ly thân từ 8/2019 đến nay. Tình cảm của chị đối với anh hiện không còn. Hiện chị đã về ĐN sinh sống. Nay chị cương quyết xin được ly hôn.
Về con chung: có 01 cháu tên Văn Trần Bảo Ng, sinh ngày 14/01/2018, hiện đang sống với chị. Chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng.
Tài sản chung: chị M khai không có Nợ chung: chị M khai không có Ngày 13/7/2020 chị M có đơn xin xét xử vắng mặt vì do điều kiện ở xa, chị phải chăm sóc con nhỏ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã nhiều lần mời anh L đến để tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh L vẫn vắng mặt không lý do. Ngày 07/9/2020 anh L có bản tự khai. Anh thừa nhận lời trình bày của chị M về thời gian và điều kiện kết hôn, mâu thuẩn giữa anh chị xảy ra từ năm 2009. Anh chị có 01 con chung là Văn Trần Bảo Ng, sinh 14/01/2018 nếu anh chị không hòa giải được thì anh xin được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng. Tài sản chung và nợ chung anh khai không có.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre phát biểu quan điểm:
Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng được tiến hành đúng theo trình tự pháp luật quy định, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Về nội dung: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc xin ly hôn. Chị M được tiếp tục nuôi cháu Ngọc, ghi nhận việc chị M không yêu cầu cấp dưỡng. Tài sản chung và nợ chung chị M khai không có nên không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả của việc tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận thấy:
[1] Ngày 13/7/2020 chị Trần Thị M có đơn xin ly hôn với anh Văn Phước L, anh L đang cư trú tại thành phố Bến Tre nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre theo qui định tại các Điều 28, 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã tống đạt thông báo thụ lý, thông báo hòa giải nhưng anh L không có mặt theo thông báo hòa giải nên không thể tiến hành mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải được. Ngoài ra, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre cũng đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập, quyết định hoãn phiên tòa cho anh L để tham gia phiên tòa nhưng anh vẫn vắng mặt không lý do. Đồng thời chị M cũng có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh L và chị M là phù hợp.
[3] Chị Trần Thị M và anh Văn Phước L kết hôn năm 2016, hôn nhân do cả hai tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND phường K thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh M, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẩn nguyên nhân do không hợp nhau. Anh chị đã ly thân từ 8/2019 đến nay. Hiện tình cảm của chị M đối với anh L không còn. Nay chị M cương quyết xin được ly hôn. Ngày 07/9/2020 anh L có bản tự khai. Anh thừa nhận lời trình bày của chị M về thời gian và điều kiện kết hôn, mâu thuẩn giữa anh chị xảy ra từ năm 2009. Anh L không đến Tòa và cũng không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn hạnh M gia đình. Xét thấy đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Do đó nghĩ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị M.
[4] Về con chung: có 01 cháu tên Văn Trần Bảo Ng, sinh ngày 14/01/2018, Anh L xin được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng. Hiện cháu Ngọc hiện đang sống với chị M và cháu dưới 36 tháng tuổi nên giao cho chị M nuôi là phù hợp với qui định của pháp luật. Việc chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con nghĩ nên ghi nhận..
[5] Về tài sản chung: cả hai khai không có nên không đặt vấn đề giải quyết. [6] Về nợ chung: cả hai khai không có nên không xem xét giải quyết.
[7] Đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[8] Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đồng (Ba trăm nghìn) đồng chị M phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 147, 227, 228, 235 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị M, cụ thể tuyên:
- Về hôn nhân: chị Trần Thị M được ly hôn với anh Văn Phước L
- Về con chung: chị M được tiếp tục nuôi cháu Văn Trần Bảo Ng, sinh ngày 14/01/2018.
Ghi nhận việc chị M không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.
Không bên nào được ngăn cản quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung.
Vì lợi ích của con khi cần thiết một trong các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: chị M khai không có nên không xem xét giải quyết
- Về nợ chung: chị M khai không có nên không xem xét giải quyết
- Về án phí: Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Trần Thị M phải nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0011980 ngày 15/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre. Chị M đã nộp đủ án phí.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ
Bản án 71/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về xin ly hôn
Số hiệu: | 71/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về